Sau khởi nghĩa thắng lợi, đánh đuổi quân Nam Hán vào mùa Xuân năm Canh Tý (năm thứ 40 sau CN), lập nên vương triều mới, Hai Bà Trưng đã chú ý ngay tới công việc bảo vệ nền độc lập, cắt cử những tướng giỏi cai quản những nơi hiểm yếu, trong đó có cửa ngõ vùng biển Đông Bắc của đất nước. Và, một nữ tướng được Hai Bà Trưng tin tưởng giao cho trấn ải vùng đất quan yếu để ngăn chặn giặc phương Bắc theo đường biển đánh vào Mê Linh này là bà Lê Chân. Lê Chân được xem là vị tướng Biên phòng đầu tiên của lực lượng Biên phòng nước ta.
Quận Lê Chân ở Hải Phòng
Tên của bà được dùng để đặt cho một quận thuộc thành phố Hải Phòng, quận Lê Chân được thành lập vào năm 1961, ban đầu gồm 11 phường, với vị trí tiếp giáp quận Ngô Quyền và một phần huyện Kiến Thụy ở phía Đông; quận Kiến An, huyện An Dương ở phía Tây; huyện Kiến Thụy ở phía Nam và quận Hồng Bàng ở phía Bắc.
Lê Chân – nữ tướng biên phòng đầu tiên của nước ta
Theo Sự tích Đức Thánh Mẫu Lê Chân ở đền Nghè, Hải Phòng, Lê Chân là người con gái quê ở một làng nhỏ gọi là làng An Biên, huyện Đông Triều, Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng). Cha là Lê Đạo làm nghề thuốc, sống rất nhân từ quảng đại và sẵn lòng bao dung cứu giúp kẻ nghèo khó sa cơ lỡ bước, được dân chúng xa gần mến phục. Vợ ông là bà Trần Thị Châu cũng nổi tiếng là người thùy mị, đảm đang và nhân đức. Hiềm một nỗi hai ông bà mặc dù tuổi đã cao mà chưa sinh được người con nào để vui cảnh tuổi già hôm sớm. Ông bà đi lễ bái, cầu phúc nơi cửa Phật trên núi Yên Tử. Thế rồi, bà mẹ có thai và sinh được một cô con gái vào ngày mồng 8 tháng 2, đặt tên là Lê Chân (Về việc sinh ra Lê Chân, theo sách Những gương mặt phụ nữ Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm (NXB KHXH Hà Nội, 1996), “trong một lần ông bà tới chùa Yên Tử cầu Phật, bà mơ thấy có một vị thiên sứ nói rằng Ngọc Hoàng sẽ cho một vị tiên nữ giáng trần, làm con trong 40 năm, gia đình sẽ được vinh hiển, con trai cũng không sánh kịp. Rồi một hôm, bà Trần Thị Châu dậy sớm ra đồng, thấy một dấu chân to, bèn ướm thử chân mình vào, không ngờ, trở về cảm động mà có thai, mãn kỳ sinh ra một bé gái (ngày 8//2) cực kỳ xinh đẹp. Ông bà nhớ tới dấu chân ướm thử khi trước, bèn đặt tên là Lê Chân”). Càng lớn, Lê Chân càng xinh đẹp, lại nết na chăm chỉ. Đến năm 18 tuổi thì sắc đẹp và đức hạnh của nàng đã nổi tiếng khắp vùng.
Thủa ấy, nước ta đang bị bọn xâm lược nhà Hán đô hộ. Dưới thời đất nước bị xâm lăng, sắc đẹp mê hồn của nàng Lê Chân lại là một nguyên nhân gây cho gia đình nàng tai biến không ngờ. Trtong một lần viên Thái thú Tô Định đi kinh lý qua miền Đông Triều, có kẻ nịnh thần tâu với Thái thú rằng Lê Chân là một tiên nữ giáng thế. Tô Định dùng quyền thế để ép nàng làm vợ, nhưng bị nàng và gia đình nhất mực từ chối. Vì chuyện cầu hôn không thành mà Tô Định đã hãm hại cả cha mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước tham tàn, bỉ ổi, nàng Lê Chân quyết chí trả thù nhà, đền nợ nước. Nàng đã tìm được thầy dạy cho mình võ nghệ, binh thư. Khi đã tinh thông quyền cước, nàng bèn di cư đến đất An Dương để chiêu tập binh mã. Vùng đất An Dương lúc bấy giờ chỉ là một bãi đất phù sa mới bồi, lơ thơ mấy khóm cây dại, mấy túp lều tranh của phường chài lưới. Lê Chân chiêu mộ nhân dân khai hoang, lập ấp. Chẳng bao lâu sau, dân cư trong vùng ngày càng đông đúc, chợ búa mọc lên, sầm uất. Chợ An Biên mở ra từ đó. Lê Chân âm thầm tích trữ lương thực, sắm sửa vũ khí và thu nạp quân sĩ huấn luyện võ nghệ, binh pháp. Bà đã liên kết với nhiều hào kiệt quanh vùng như Lệnh Bá, Chính Trọng ở Quỳnh Cư (xã Hùng Vương), Trương Lại, Trương Tề, Trương Độ người Thiềm Khê (Thủy Nguyên), ba chị em Tạ Huy Thâu, Tạ Ả Ráng, Tạ Đoan Dung (Tiên Minh, Tiên Lãng),…cùng thề đoàn kết chống Tô Định. Cả vùng An Dương trở thành một khu căn cứ lớn của nghĩa quân.
Mùa Xuân năm Canh Tý (năm thứ 40 sau CN), từ vùng đất Mê Linh, Phong Châu, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa chống lại sự áp bức hà khắc của Thái thú Tô Định. Hai Bà hội quân ở Hát Môn (thuộc huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây cũ) tổ chức lễ tế cáo trời đất, truyền hịch kêu gọi anh hùng hào kiệt các nơi. Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bay về vùng biển An Biên. Lê Chân đưa đội quân của bà từ vùng biển Đông về tụ nghĩa. Lê Chân lên xứ Đoài tìm gặp người đồng tâm mưu nghiệp lớn. Hai Bà Trưng phong cho Lê Chân làm tướng, để ngày đêm cùng bàn kế sách khởi nghĩa. Hai Bà Trưng phong cho Lê Chân là Thanh Chân công chúa. Lê Chân cùng Bình Khôi công chúa đem quân đi đánh Tô Định, quân Định tan vỡ chạy về Bắc). Được nhân dân đồng thanh tán thưởng, kẻ góp sức, người giúp của, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã nhanh chóng lan rộng ra khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố. Chẳng bao lâu, quân khởi nghĩa đã hạ được 65 thành. Bọn tàn quân Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải. Hai Bà Trưng xưng vương, đóng đô ở Mê Linh:
Hai Bà Trưng giao cho Lê Chân trọng trách “Chưởng quản binh quyền nội bộ”, đóng đại bản doanh ở Giao Chỉ. Sớm nhận thấy vị trí quan trọng của vùng biển Đông Bắc trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Hán, Hai Bà Trưng đã “chọn mặt gửi vàng”, giao cho bà Lê Chân trở về trấn giữ vùng cửa biển Đông Bắc, quê hương bà, với chức “Hải Tần phòng thủ”. Nhiều người cho rằng tên gọi Hải Phòng ngày nay có nguồn gốc từ cụm từ Hải Tần phòng thủ có từ khi bà Lê Chân được Hai Bà Trưng giao cho trọng trách xuống trấn thủ vùng cửa biển Hải Đông này.
Bà Lê Chân trở về quê làng An Biên ở Đông Triều rồi đem quân dân sang huyện An Dương lập ấp mở trại, đặt ra An Biên trang. Bà cùng nhân dân khai khẩn đất hoang, nơi vùng dọc theo sông Tam Bạc biến thành đồng ruộng trồng lúa và bãi dâu xanh tốt. Tiếp nối công đức của cha, bà Lê Chân mở rộng lòng từ thiện cứu giúp người nghèo, khuyến khích nghề nông. Trong vùng, dân cư ngày càng đông đúc, trù phú.
Trưng Vương ở ngôi 3 năm, thanh thế ngày càng lừng lẫy. Không cam chịu thất bại, nhà Hán đã sai viên đại tướng 58 tuổi Mã Viện – người từng có nhiều thủ đoạn đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân Trung Quốc, làm Phục Ba tướng quân mang quân sang báo thù. Địch đóng quân ở Lãng Bạc (nay thuộc vùng Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc). Theo sách Những gương mặt phụ nữ Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm (NXB KHXH Hà Nội, 1996), “Bà Trưng sai các đạo về ứng chiến. Quân Hán thường thua. Một hôm, Bà Trưng cưỡi voi đuổi giặc, gió thổi tung khăn, giặc biết là nữ, chúng bèn cởi truồng ra mà đánh. Bà Trưng xấu hổ rơi cả vũ khí. Biết thua, Bà cùng Nhị tướng nhảy xuống sông Nhĩ Hà tự tử (ngày 15 tháng Chạp). Cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng bị Mã Viện đàn áp dã man, song cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Bà Lê Chân đã tổ chức lấp suối, ngăn sông, chặn đánh thủy binh của Mã Viện. Lực lượng tuy thua kém quân giặc nhưng tinh thần chiến đấu của các nghĩa quân rất cao, gây cho giặc nhiều thiệt hại. Bà đã rút quân về vùng Lạc Sơn (thuộc xã Thanh Sơn, huyện Kim Thanh, Hải Dương ngày nay), xây dựng căn cứ tiếp tục chiến đấu. Nhưng sau một trận đánh ác liệt, nghĩa quân tan vỡ, bà đã tuẫn tiết tại núi Dát Dâu (theo Đền miếu Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh chủ biên, NXB Thanh niên, 2000, tr 239). Để tưởng nhớ công đức của bà Lê Chân, dân làng An Biên bảo nhau dựng đền thờ bà. Sách Những gương mặt phụ nữ Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm (NXB KHXH Hà Nội, 1996), viết: “Sau khi công chúa chết, thường rất linh ứng, báo mộng cho nhân dân An Biên biết để phụng thờ. Hàng năm, vào ngày 3 tháng Giêng đến lễ, cầu xin rất linh ứng. Đến thời Trần, quân Chiêm Thành xâm lấn nước ta, nàng phù hộ, trợ giúp cho vua Trần Anh Tông đánh thắng giặc, được vua phong là Thánh Chân công chúa Thượng đẳng phúc thần”.
Công lao khai phá và lập ra làng An Biên xưa và Hải Phòng ngày nay của bà Lê Chân mãi mãi được các thế hệ nhân dân quê hương bà không bao giờ quên. Tại trang An Biên xưa, nay là phố An Biên, thành phố Hải Phòng, vẫn còn có Đền Nghè thờ bà. Hàng năm, nhân dân vẫn hương khói thờ phụng Lê Chân vị nữ anh hùng, người có công xây dựng và bảo vệ vùng biển Đông Bắc của Tổ quốc. Cũng như nhiều tướng tá của Hai Bà Trưng sau khi chết được thờ làm thành hoàng ở nhiều nơi, bà Lê Chân được người dân vùng An Biên thờ làm thành hoàng Hải Phòng.
Trong lịch sử đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn song hành cùng nam giới, làm nên những chiến công bất hủ. Năm 40, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, phụ nữ đóng vai trò then chốt cả về chỉ huy và chiến đấu. Bà Lê Chân là vị nữ tướng xuất sắc, công lao, chiến tích của bà lưu dấu ấn sâu đậm ở nhiều địa phương.
Từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội...
Theo thần tích, truyền thuyết và các tư liệu khác về bà Lê Chân vào những năm đầu công nguyên nước ta bị nhà Đông Hán (Trung Quốc) thống trị. Ở làng An Biên (tên nôm làng Vẻn) huyện Đông Triều, xứ Đông (nay thuộc xã Thủy An, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) có ông Lê Đạo làm nghề thầy thuốc, tính nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó. Vợ ông là Trần Thị Châu cũng là người thuần hậu. Hiềm nỗi, ông bà tuổi đã cao mà chưa có con. Nghe tiếng ngôi chùa ở núi Yên Tử trong huyện rất linh ứng, ông bà tìm đến cầu tự. Quả nhiên, bà Châu có mang, ngày mồng 8 tháng 2 năm Canh Thìn (20) bà sinh con gái khôi ngô, bụ bẫm. Ông, bà đặt tên con là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh của nàng nổi tiếng khắp vùng.
Thái thú Tô Định, một kẻ tham tàn, bạo ngược "thấy tiền thì giương mắt lên" đi kinh lý qua Đông Triều. Nghe kẻ nịnh thần tâu bày về sắc đẹp của nàng Lê Chân, Tô Định bèn dùng quyền thế ép nàng làm tì thiếp. Lê Chân dứt khoát chối từ. Tức tối, Tô Định hãm hại cả bố, mẹ nàng. Căm giận quân cướp nước, Lê Chân nung nấu căm thù, quyết trả thù nhà, nợ nước. Nàng tìm thày học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi võ nghệ đã tinh thông, nàng cùng bạn bè tâm phúc sang đất An Dương (Hải Phòng), lúc ấy là một vùng đất bãi phù sa mới bồi. Nàng chiêu dân tứ xứ khai khẩn đất hoang, lập nên xóm ấp, chiêu tập binh mã, sắm sanh vũ khí, tích trữ lương thảo sẵn sàng khởi nghĩa.
Nghe tin ở xứ Đoài, Hai Bà Trưng cũng đang mưu nghiệp lớn, Lê Chân chẳng ngại đường sá cách trở tìm đến đất Mê Linh. Bà Trưng Trắc phong Lê Chân làm tướng được cùng bàn luận kế sách khởi nghĩa rồi phái nàng trở lại quê nhà, chiêu tập thêm binh sĩ, chuẩn bị sẵn lương thảo, chờ thời cơ hành động.
Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung Quốc) xin quân cứu viện.
Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền coi giữ vùng hải tần (duyên hải Đông Bắc).
Nữ tướng Lê Chân đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, mở thêm trại, ấp lập ra trang An Biên (lấy tên quê gốc). Bà dùng nhân công khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư đã đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà dân giàu có. Bà Lê Chân thường xuyên cho luyện tập trận thế, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng.
Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước Âu Lạc. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện xảo quyệt, mưu mô, có tài chinh chiến, dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Lực lượng quân sự Đông Hán huy động ở mấy quân phía Nam Trung Quốc binh lính thiện chiến quen với thung thổ, khí hậu nhiệt đới, gồm 2 vạn quân chủ lực, 2000 thuyền, xe lớn, ngoài ra còn quân chèo thuyền, dân phu tải lương, phục dịch.
Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta.
Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền Lê Chân chỉ huy đã ra quân kịp thời chặn đánh quyết liệt đoàn thuyền binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương trên bộ nữ tướng Thánh Thiện đem quân lên đánh giặc ở biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân.
Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm chúng tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng phải lui quân.
Đội thuyền binh của Lê Chân nhỏ nhẹ, ngược sông Bạch Đằng tiến rất nhanh, còn binh thuyền của Mã Viện to lớn, nặng nề nên đuổi theo rất chậm. Chẳng mấy chốc quân ta đã bỏ xa quân địch. Theo đường sông Bạch Đằng - Kinh Thầy - sông Đuống, thủy quân của Lê Chân tập kết về vùng hồ Tây, Hoàng Mai bên bờ hữu sông Hồng. Trong thời gian ngắn trú quân ở đây, nữ tướng Lê Chân gấp rút củng cố lực lượng, tuyển thêm binh sĩ, đóng thêm thuyền chiến. Bà cho binh sĩ luyện tập võ nghệ, mở lò đấu vật. Mọi việc đã xong, nữ tướng Lê Chân gấp rút hành quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh.
Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thạo đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện quỉ quyệt chỉ huy, nên dần xoay chuyển tình thế. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt cho việc phòng ngự.
Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa).
Đến căn cứ Lạt Sơn
Sông Đáy - chi lưu bên hữu ngạn sông Hồng, bắt nguồn ở xã Vân Nam (Phúc Thọ, Hà Nội) chảy qua vùng đồng bằng vào đất Hà Nam thì gặp núi ở thôn Vĩnh Sơn (xã Tân Sơn - Kim Bảng) ở cả hai bờ. Sông tiếp tục uốn khúc qua hai xã Khả Phong, Thi Sơn với những khối núi, quả núi độc lập nằm bên hữu ngạn, đến địa phận xã Liên Sơn, Thanh Sơn núi kết thành dải, trùng điệp, cây mọc thành rừng. Từ địa phận thôn Đồng Sơn hiện nay (xã Liên Sơn) cũng bên hữu ngạn sông Đáy, sông Ngân nhận nước sông mẹ, chảy ngoằn ngoèo ven dãy núi qua các thôn Bút Sơn, Lạt Sơn (Thanh Sơn, Kim Bảng), Tân Lâm, Nam Sơn (thị trấn Kiện Khê) rồi đổ nước vào sông Đáy ở địa phận thôn Đò (xã Thanh Thủy) huyện Thanh Liêm.
Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Căn cứ Lạt Sơn lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Các tên thung, núi đồi và ký ức dân gian, mặc dù đã trải qua gần 2.000 năm vẫn giúp đời sau hình dung được những nét cơ bản về căn cứ và những trận đánh cuối cùng của bà Lê Chân.
Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh(1). Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu cần xác minh thêm về ý nghĩa.
Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn(2).
Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão (43). Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ(3).
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách, trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khởi nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính. Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, Đông Triều, Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn đánh cuộc xâm lược của Mã Viện; đình Hoàng Mai (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) nơi bà lập sới vật để rèn luyện quân sĩ. Đặc biệt tại căn cứ Lạt Sơn xưa, từ bao đời nay nhân dân địa phương, khách thập phương xa gần tụ về chiêm bái, đông nhất vào kỳ lễ hội, ngôi đền thờ Bà Lê Chân, tưởng niệm vị nữ tướng anh hùng dành trọn cuộc đời mình vì nghĩa lớn. Cũng nơi đây trên vách đá thung Bể còn lưu lại ba tấm bia niên đại năm 1671, 1672 triều vua Lê Gia Tông thời Hậu Lê, nói đến việc xây chùa Thánh Chân, khởi nguồn là Tiên động Thánh Chân, một bia có khắc hình con hổ, gợi liên tưởng đến sự dũng mãnh như hổ của nữ tướng Lê Chân, điệp thêm sự tôn kính, nâng Bà lên hàng Thánh Mẫu, Phật Mẫu.
Không chỉ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam mà cả nước đều tôn vinh, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, bởi vì bà đã để lại cho hậu thế muôn đời tấm gương chói lọi vì nước, vì dân./.
Chú thích:
(1) Bia ma nhai trên vách đá ở thung Bể (Lạt Sơn) có khắc hình con voi thêm một căn cứ về sự có mặt của đội tướng binh.
(2) Đô Dương quê làng Dương Xá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ông là đô vật nổi tiếng. Đô Dương có nghĩa sau: Đô vừa là đô vật vừa chỉ chức quan võ chỉ huy một đạo quân, Dương là họ, không phải tên. Bia ma nhai ở thung Bể (Lạt Sơn) khắc tên nhiều người họ Dương công đức xây chùa Thánh Chân, gợi liên tưởng về sự tham gia của người họ Dương ở căn cứ Lạt Sơn. Tộc phả họ Dương ở Lạt Sơn cho biết tổ tiên vốn người Cửu Chân (xã Gia Miêu, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa).
(3) Bia Lạt Sơn, niên đại 1671 nói đến Tiên động Thánh Chân, phải chăng bà được mai táng tại đây nên mang tên này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét