Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

Võ Hữu Nhậm - Đất Nam Kỳ - Bột Ngọt là tiếng Việt - Mì Chính là tiếng Tàu Chệt


Chữ "bột ngọt" là tiếng thuần Việt, chữ "mì chính" là tiếng Tàu rặc chớ đừng nói tới tiếng Hán-Việt.

Trong hình là một graphic quảng cáo bột ngọt Vị Hương Tố ở miền Nam trước năm 1975. 

Để ý chữ bự in đậm là chữ “Vị Hương Tố viết bằng Hán tự, ở dưới là bốn chữ “Đặc cấp vị tinh (特級味精)” tức “Bột ngọt cao cấp”. “Vị tinh” là phiên âm Hán Việt của chữ 味精, tức bột ngọt.

Trước đây, ở ngoài bắc không có bột ngọt mà gia vị chánh của xứ này là muối và mắm tôm. 

Khoảng thời gian sau 1957, khi Trung Quốc đem người qua (gồm quân nhơn, kỹ sư, công nhơn,…) để giúp đỡ bắc việt trong thời kỳ “kháng chiến chống người Nam”, những người Hoa này đem theo thứ gia vị mới là bột ngọt qua, và cũng chính người TQ xây cho người bắc một nhà máy bột ngọt ở Việt Trì.

Do không có khái niệm gì về loại gia vị này, nên người Tàu đọc sao thì người bắc đọc theo vậy, hai chữ “mì chính” là cách đọc của 味精 trong tiếng Quảng Đông.  

Sau khi bột ngọt xuất hiện ở miền bắc, người dân như được khai sáng sau hàng ngàn năm nêm muối và mắm tôm. Vậy là món nào nêm bột ngọt được cứ nêm. Bột ngọt loại tinh chất thời đó được coi như một loại gia vị cao cấp, vậy nên người bắc thời trước hay có câu “Hiếm như mì chính cánh”. Do không có gia sú.c, gia cầm để nấu nên người bắc nhanh chóng yêu thích bột ngọt, tập tục đó kéo dài cho tới ngày hôm nay.

Tóm lại chữ “bột ngọt” là một chữ thuần Việt, chữ Hán Việt là “vị tinh”, còn âm tiếng Tàu (Quảng Đông) là “mì chính”. 

Nguồn: Đất Nam Kỳ. Võ Hữu Nhậm


Người Nhật có thứ tương đương là A-ji-no-mo-to cũng có vẻ tương đồng với cái hình ở trên.



Thứ Năm, 25 tháng 8, 2022

Nguyễn Khoa - SỰ SUY TÀN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

SỰ SUY TÀN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM 

Nguyễn Khoa, 25 tháng Tám 2022

Không có gì chứng minh rõ hơn sự suy thoái của Phật giáo Việt Nam bằng những ầm ỷ, lộn xộn xung quanh nhà sư Thích Trúc Thái Minh (có tin đồn ông là sĩ quan công an), trụ trì chùa Ba Vàng tại Quảng Ninh: việc ông tổ chức “cúng dường hoành tráng” theo nghi thức Phật giáo nguyên thủy, việc ông bị Giáo hội Phật giáo Việt Nam kỷ luật trước đó, việc ông được (bị) điều về Quảng Bình, việc lời qua tiếng lại giữa nhà sư Thái Minh và một nhà sư khác là Thích Nhật Từ, việc các cơ quan công quyền Quảng Bình, Quảng Ninh,… dính líu tới phật sự,...

 Những tin tức mới nhất này dù ồn ào nhưng không làm ngạc nhiên những ai có quan tâm tới Phật giáo Việt Nam trong mấy chục năm qua.

 Phật giáo Việt Nam đang trên con đường tự sát. Một sự tự sát ngọt ngào trong những ngôi chùa hoành tráng như Ba Vàng, Bái Đính,… giữa những tượng Phật vĩ đại dựng lên khắp mọi miền đất nước, giữa hàng tỷ đồng cúng dường từ dân chúng.

 Thủ phạm trực tiếp của sự tự sát này, dĩ nhiên là từ sự can thiệp thô bạo của bộ máy toàn trị trên cả nước từ mấy chục năm nay, nhưng theo quan điểm của tôi, sự suy vong của Phật giáo Việt Nam, cũng như sự suy sụp của văn hóa Việt Nam, có nguyên nhân nội tại, lịch sử, chứ không hoàn toàn là do chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản chỉ đóng vai trò là chất kích thích cho sự tàn tạ ấy. Sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, với sự phá phách văn hóa của nó, phải được đặt câu hỏi là tại sao nó lại tồn tại và có thể phá phách như thế? Phải chăng là do dân tộc này có những điều kiện để “cúng dường” nó!

 Lịch sử vinh quang và bi thương

 Phật giáo đã từng hưng thịnh ở Việt Nam gần 400 năm với hai triều đại Lý, Trần vùng châu thổ sông Hồng, và triều đại Indrapura vùng Quảng Nam. Những điều tốt đẹp của văn hóa Việt Nam hiện nay, có thể nói không ngoa, chính là những gì bắt nguồn từ những thời đại ấy, sống còn qua năm tháng. Các thiền sư người Việt, các nhà sư người Chàm, góp phần không nhỏ trong việc giữ nền độc lập quốc gia trước sự bành trướng của đế quốc Mông Cổ thế kỷ 13.

 Văn hóa Lý Trần bị nhà Minh Trung Quốc tàn phá. Văn hóa Indrapura bị chính Đại Việt đời Lê tàn phá.

 Câu hỏi đặt ra là tại sao Phật giáo Việt Nam không hồi phục được sau khi Lê Lợi khôi phục quyền tự chủ?

Rất khó để tìm nguyên nhân của một biến cố lịch sử văn hóa như thế mấy trăm năm trước.

Tôi xin đề ra hai nguyên nhân, thứ nhất là sức mạnh tàn bạo của Khổng giáo Trung Hoa, mà đại diện của nó là nhà Minh với cuộc xâm lăng, và sự hủy diệt văn hóa Phật giáo Đại Việt. Thứ hai là sự huy hoàng thời Lý Trần của Phật giáo Đại Việt đã làm hại chính nó, một khi quyền lực của giới tăng lữ Phật giáo tăng lên quá lớn. Đây là điều đáng tiếc, vì Phật giáo vốn không phải là một tôn giáo có cấu trúc tôn ti trật tự như những tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhưng một khi đã hình thành một tầng lớp giáo phẩm, thì tai ương tiềm tàng cũng hình thành một cách song song.

Sự tàn tạ của phái Mật tông tại Tây Tạng cũng có nguyên nhân tương tự. Quyền uy tột bực của các nhà sư Miến Điện đã làm cho họ đạp đổ tất cả những gì là từ bi hỷ xả của Phật giáo, nhúng tay vào cuộc diệt chủng đồng loại người Rohyngia.

Triều đại Hậu Lê của Đại Việt không còn coi trọng Phật giáo nữa. Nhưng Phật giáo vẫn sống còn, lay lắt trong hàng thế kỷ. Hàng thế kỷ ấy để lại cho chúng ta không ít di tích văn hóa Phật giáo sống động như chùa Tây Phương, nhưng cũng để lại những bài thơ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương:

Nào nón tu lờ nào mũ thâm

Đi đâu chẳng đội để ong châm

Đầu sư há phải gì… bà cốt

Bá ngọ con ong bé cái lầm

hay là

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo

Làm chi một chút tẻo tèo teo

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc

Trái gió cho nên phải lộn lèo

Có lẽ không có điều gì làm cho những hành giả theo chân đức Thích Ca đau đớn hơn những bài thơ này.

Đến đời Nguyễn, Phật giáo được phục hồi, nhưng lợi bất cập hại. Những nhà sư lại được các ông vua khổng giáo của triều đại này dời vào cung cấm. Lại là quyền lực, lại là sủng ái.

Diện mạo tinh thần của Phật giáo Việt Nam hiện nay có lẽ là mang hình bóng rất rõ của triều đại nhà Nguyễn, mà nổi bật nhất là môn phái Tịnh Độ (Pure Land) phát triển lấn át hẳn các phái khác. Thiền tông vốn rất mạnh mẽ thời Lý Trần, nay hầu như vắng bóng. Có thể sự phát triển của Tịnh Độ, với nhiều thủ tục cúng kiến, chuông mõ, tụng niệm,… là phù hợp với trật tự khổng giáo, đồng thời bỏ qua phần lý tính vốn có của triết học Phật giáo, mà đi vào niềm tin, điều mà nhà cầm quyền cần, và công chúng bình dân cũng cần.

Cố gắng chấn hưng dang dở

Giai đoạn thuộc địa Pháp, một cách trớ trêu lại làm tỉnh thức Phật giáo Việt Nam, mà điển hình là phong trào chấn hưng Phật giáo do bác sĩ Lê Đình Thám, một người tây học, dấy lên ở miền Trung. Tinh thần lý tính phương Tây đánh thức các phật tử Việt Nam, rằng họ vẫn còn sở hữu một di sản văn hóa, tinh thần, tâm linh, và triết học rất sâu sắc.

Có thể nói rằng nếu không có bác sĩ Lê Đình Thám và phong trào của ông, thì Việt Nam khó mà có được các gương mặt Phật giáo lớn đương đại, như Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Tuệ Sỹ, Thích Minh Châu, Thích Thiện Châu,… trong đó thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những nhà sư Phật giáo lớn của thế giới.

Sức sống mãnh liệt được hồi phục của Phật giáo Việt Nam được thấy rõ nhất trong phong trào Phật giáo tại miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam.

 Sự hồi phục của Phật giáo Việt Nam chấm dứt với chiến thắng của những người cộng sản vào ngày 30/4/1975.

 Thiền sư Trí Quang bị giam lõng, các vị Huyền Quang, Quảng Độ bị vào tù ra khám, nặng nề nhất là thiền sư Tuệ Sỹ suýt bị chế độ cộng sản xử tử hình.

 Phật giáo và cộng sản

 Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ khi có đảng cộng sản xuất hiện tới nay, trong sự tuyên truyền để giành phần tình cảm dân tộc về phía họ, làm cho người ta dễ nhầm tưởng là cộng sản là cùng một “giuộc” với Phật giáo, và chống Công giáo. Sự thực thì chủ nghĩa cộng sản với hệ thống triết học của nó, xa Phật giáo hơn Công giáo, vì vốn nó ra đời trong truyền thống Ki Tô Do Thái của phương Tây.

Nhưng đó là một vấn đề khác, không bàn ở đây.

 Với quan điểm tự nhận mình là vô thần, và mô hình toàn trị, những người cộng sản không bao giờ muốn những loại triết học, tư tưởng, tâm linh,… ngoài cộng sản, cùng tồn tại với mình. Nỗ lực của họ đối với Công giáo không thành công bao nhiêu vì tôn giáo này có cấu trúc chặt chẽ và được một thế giới phương Tây đứng đằng sau. Những người cộng sản Việt Nam, vào thời điểm hoang ca nhất của họ, cũng không xâm nhập được vào nhà thờ Công giáo.

 Ngược lại, đối với Phật giáo, lợi dụng cấu trúc lõng lẻo của các tổ chức Phật giáo, cũng như sự thu phục tình cảm dân tộc trong hai cuộc chiến tranh, chiến tranh chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ, đảng cộng sản dễ dàng thao túng Phật giáo Việt Nam. Hơn nữa như đã đề cập ở phần trên, sau một thời gian suy tàn, chỉ còn hình thức giáo phái Tịnh Độ là đa số, với nhiều hình thức lễ bái, cầu khấn, giải hạn, cầu siêu,...Phật giáo Việt Nam dễ dàng bị lợi dụng như là một công cụ “thuốc phiện của nhân dân” (câu của Karl Marx, lập lại quan điểm của Hegel khi bàn về tôn giáo).

Sau kinh nghiệm cứng rắn đốt chùa, đập tượng, đả thực bài phong, trên miền bắc xã hội chủ nghĩa sau năm 1954, cũng như đàn áp mạnh mẽ chùa chiền tại miền Nam sau năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam, phát hiện rằng họ có sẵn trong tay món thuốc phiện rất hữu hiệu. Họ bắt đầu dung túng tầng lớp sư sãi nhũng lạm, đưa cho họ quyền lực. Đôi bên cùng có lợi.

Kết quả bây giờ chính là chùa Ba Vàng, chùa Bái Đính, Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang (có lời đồn ông này là họ hàng xa xôi với cố chủ tịch Hồ Chí Minh ?!), và dĩ nhiên Thích Trúc Thái Minh.

Trong kết quả kiểm tra dân số gần đây nhất, số người Việt Nam tự nhận mình là tín đồ Ki Tô (Công giáo, Tin Lành), đã vượt qua số người tự nhận mình là phật tử. Dĩ nhiên ta nên nhìn con số này một cách tương đối, vì số người Việt không đi chùa, nhưng chịu ảnh hưởng các ý thức Phật giáo khá đông, những người này có thể không nhận mình là phật tử. Bên cạnh đó việc kê khai nhân khẩu, làm chứng minh nhân dân, khai lý lịch,… trong một thời gian dài làm cho người ta sợ hãi khi khai mục tôn giáo, nhiều phật tử cứ đánh vào ô: dân tộc kinh, tôn giáo không cho nó an toàn. Dù sao đó cũng là một thắng lợi của những người cộng sản đối với Phật giáo.

Nhưng hữu hiệu nhất vẫn là dùng chính Phật giáo để diệt Phật giáo, với sự nhũng lạm của khá đông sư sãi nhà nước. Một hệ thống toàn trị Phật giáo, phó sản của hệ thống toàn trị cộng sản được hình thành, và đang nắm tinh thần cũng như túi tiền của hàng chục triệu người Việt Nam.

Phật giáo hải ngoại

Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại cũng không lấy gì làm sáng sủa.

Trên mảnh đất tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, nhiều nhà sư Việt Nam tại Mỹ ủng hộ nhiệt tình cựu tổng thống Mỹ Donald Trump, kẻ phản dân chủ bậc nhất trong lịch sử nước Mỹ. Có những nhà sư cũng rất tích cực chia sẻ thuyết âm mưu Qnon rất quái dị, tin vịt thượng vàng hạ cám của tờ Đại Kỷ Nguyên, của nhóm Pháp Luân Công, một phó sản của sự tàn tạ của Phật giáo Trung Hoa.

Tượng Phật lớn, cúng kiến linh đình, không phải là độc quyền của các chùa trong nước. Lớp công chúng phật tử Việt Nam tại hải ngoại hiện nay cũng như đồng bào họ trong nước, rất ưa chuộng lễ bái cúng kiến theo pháp môn Tịnh Độ. Việc này làm cho lớp người Việt trẻ tuổi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, với tinh thần duy lý và cấp tiến, cảm thấy xa lạ. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục, thì hàng hà sa số chùa chiền Việt Nam tại Mỹ hiện nay rơi vào tình trạng phá sản, là một tương lai không xa.

 Không cần kể ra đây hàng chục vụ tranh giành nhà cửa, tài sản, có liên quan đến những ngôi chùa Việt Nam tại Mỹ, đến các nhà sư, đến mức phải ra tòa.

 Tình trạng toàn trị Phật giáo trong nước cộng với thể chế tự do tôn giáo tại Mỹ còn dẫn đến một việc dở khóc dở cười nữa là có hàng trăm, hàng ngàn tu sĩ Phật giáo Việt Nam xuất cảnh sang Mỹ theo diện … tôn giáo. Theo những nguồn tin đáng tin cậy thì không bao nhiêu tu sĩ trong số này thực sự là tu hành, mà họ chỉ lợi dụng chiếc áo nâu sòng… để đi Mỹ. Sang Mỹ rồi thì nhẹ nhàng là rủ tín đồ lập chùa riêng, hay thậm chí là trái gió nên phải lộn lèo như nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương mỉa mai hơn 200 năm trước.

Một nhà sư Việt Nam sống tại Mỹ có tâm sự với tôi rằng ông hồ nghi có một âm mưu tàn phá Phật giáo Việt Nam từ hàng chục năm qua.

Tôi nghĩ rằng ông lo lắng thái quá. Dĩ nhiên kế hoạch kềm chế Phật giáo của những người cộng sản thì đã rõ, mà họ cũng đâu có giấu diếm điều đó qua những tuyên bố mang tính vô thần, duy vật biện chứng (sic) của họ! Chẳng phải thế giới theo quan điểm Phật giáo là vô thủy vô chung, theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt hay sao?

Tôi vẫn lạc quan về sự tái sinh, bắt đầu chu kỳ mới của Phật giáo Việt Nam.


Triệu Quốc Thước - Thiên Đường Đông Lào bị kẹt giữa các “tiêu chuẩn kép”

Thiên Đường Đông Lào bị kẹt giữa các “tiêu chuẩn kép”

Triệu Quốc Thước, 25 tháng Tám 2022

Chừng nào cuộc chiến còn tiếp diễn, Việt Nam càng bị lún sâu vào các “tiêu chuẩn kép” mà rồi đây, Hà Nội chưa biết sẽ “trang trải” với Kyiv như thế nào cho phải đạo. Trên mạng xã hội, Facebooker Lê Xuân Nghĩa không hiểu nổi một bộ phận lớn người Việt nhân danh điều gì để xúc phạm dân tộc và đất nước Ukraine đang phải vật lộn với cuộc chiến vệ quốc? Ông Lê Xuân Nghĩa đặt câu hỏi: Tại sao Việt Nam thì “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhưng lại đòi Ukraine nên đầu hàng Nga sớm và nên theo Nga để “người dân đỡ phải chết chóc”? Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được phép rời Thủ đô để đi kháng chiến, nhằm bảo toàn lực lượng. Ukraine thì không có quyền ấy. Chưa đi tản cư đã bị phê là “hèn nhát”? (6)


Nhưng có lẽ thất thố lớn nhất là Thiếu tướng, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược từ Bộ Công An Lê Văn Cương đã đăng đàn diễn thuyết về các sự kiện liên quan đến cuộc chiến Ukraine. Chất lượng dự đoán của ông “gây nổ lớn” trên các trang mạng. Ngày 17/02/2022, trả lời báo Dân Việt, Thiếu tướng Cương cho biết, ông ủng hộ và tin rằng, Tổng thống Putin sẽ không động binh với Ukraine. Trên thực tế 7 ngày sau, sáng ngày 24/02, Nga tấn công Ukraine mà không hề tuyên chiến. Chưa hết, trả lời báo Nghệ An, ông Cương còn lên tiếng rằng, Nga sẽ không xâm lược và không cướp đất của Ukraine, Nga sẽ không sa lầy sâu vào cuộc chiến, quân Nga sẽ thắng nhanh và kết thúc chiến tranh cuối tháng 3, thực chất, Nga đã phải rút lui khỏi Kiev và cuộc chiến vẫn khốc liệt trong những ngày này. (7)


Phản cảm nhất là khi tướng Cương lên án Tổng thống Ukraine Zelensky mắc các trọng tội. “Người đứng đầu quốc gia mà mắc 3 trọng tội như vậy thì không thể tồn tại được”, tướng Cương đánh giá tiếp, Zelensky là “thằng hề 43 tuổi” thì “làm sao đọ được với nguyên sĩ quan KGB Putin 70 tuổi” (?!). Lượng Phạm Văn tung ngay một cái “tuýt”: Tôi không nghĩ Tổng thống Ucraine Zelensky là “một thằng hề”. Ông ấy là Tổng thống của một quốc gia... Tôi kính trọng ông ấy bởi lòng dũng cảm, không rời khỏi đất nước, để chiến đấu chống lại quân xâm lược!” (8)


Đạo lý gì đây hả trời? Các tướng nói không ngượng hay sao ấy? Khi một đất nước mà một bộ phận dân tình và các bậc tự nhận là “có tiếng nói định hướng dư luận” (KOL) mà lại tráo trở, xảo ngôn, chà đạp lên chân lý và lẽ phải, đất nước đó khó mà nhận được sự tôn trọng của thế giới. Có ai trả lời được câu hỏi trên đây? Đó là kết quả của giáo dục, tuyên truyền một chiều làm cho trí não bị tê liệt, nhìn một chiều mãi rồi quen, mất đi khả năng lật ngược vấn đề xem xét cho kỹ để nhận thức đúng đắn sự vật? Tự huyễn hoặc, bị lừa gạt mà vẫn tiếp tục sai lầm... Ban đầu chỉ một số ít tin vào tuyên truyền, nhưng rồi bị nhồi sọ lâu ngày, mất niềm tin và hùa theo tâm lý đám đông. (9)


Tình hình tồi tệ đến mức, một vài tờ báo chính thống trong nước đã buộc phải đính chính lại các loại tướng như Lê Văn Cương, Lê Thế Mậu…  Cho dù sau đó, những bài này đã bị “delete”. Tờ “Người Lao động” ra hôm 25/2 có bài: “Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace khẳng định Nga chưa đạt được bất kỳ mục tiêu lớn nào ở Ukraine trong ngày đầu ra quân nhưng đã tổn thất 450 binh sĩ, tính đến ngày 25/2”. Báo “Thanh niên hôm 18/3 “giật tít”: “Ukraine phản công, đà tiến của Nga bị chặn”. Đà tiến quân của Nga được cho là đình trệ trên mọi mặt trận, trong khi Ukraine bắt đầu tổ chức phản công. Chưa hết, AFP đưa tin Bộ Ngoại giao Ukraine ngày 17/3 cáo buộc Nga hôm 16/3 đánh bom rạp hát ở TP.Mariupol, nơi hơn 1.000 người bao gồm trẻ em, đang ẩn náu. (10)


Có tác giả đã muốn tìm nguồn gốc của tình trạng “ tiêu chuẩn kép” do đâu mà có? Phải chăng, trong thời Chiến tranh lạnh, Việt Nam là quốc gia thuộc hệ thống XHCN, núp dưới bóng của Liên Xô và Trung Quốc. Chính vì vậy, cho tới nay, thể chế chính trị của Việt Nam cũng mang “các gen” độc tài như Nga và Trung Quốc vậy. Tuy nhiên, khác với Nga và Trung Quốc, khi quyền lực tập trung chủ yếu vào một cá nhân duy nhất, ở Nga là Tổng thống Putin và ở Trung Quốc là Chủ tịch Tập Cận Bình, Việt Nam không có nhân vật nào đủ sức mạnh nắm quyền lực tuyệt đối như Putin và Tập. Tuy nhiên, thể chế chính trị Việt Nam vẫn là độc đảng, quyền lãnh đạo tuyệt đối tất cả mọi mặt thuộc về Đảng Cộng sản. Thể chế độc tài với sự cai trị tuyệt đối đó đã bộc lộ ra nhiều căn bệnh trầm kha. Ngoài tình trạng tham nhũng từ trên xuống dưới, căn bệnh “tiêu chuẩn kép” cũng từ đấy mà ra. Chính vì có chung thể chế độc tài, cho nên Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi “các bóng xám” của ông Putin cũng như của ông Tập, mặc dầu về kinh tế lại muốn “hội nhập” để hướng về Mỹ và phương Tây. (11)



Nguồn RFA: Cuộc chiến Ukraine và “tiêu chuẩn kép” của Việt Nam — Tiếng Việt (rfa.org)

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

Phan Châu Thành - Phương Tây Chết vì không ủng hộ Nga

 Nghị viện Châu Âu ra thông báo:

- GDP Nga giảm trên 10% 

- Sản xuất xe giảm 90%

- Hơn 1.000 cty nước ngoài rời khỏi Nga.

- 45% công nghệ cao mà Nga sử dụng thuộc về EU (chưa tính Mỹ)

Giá dầu (xăng) trên thế giới quay về mức trước khi cuộc chiến xảy ra, cho thấy ảnh hưởng của Nga lên thị trường này không đáng kể, bất chấp Nga có "cắt" hay không.

Giá khí đốt, vũ khí lớn nhất của Nga, sau khi tăng giá từ 27 lên 42 usd đã quay đầu về mức 34,35 - chỉ còn tăng 27% so với trước chiến tranh, trong bối cảnh Na Uy tuyên bố tăng sản lượng khai thác để đáp ứng nhu cầu

Đức, quốc gia sử dụng nhiều khí đốt nhất từ Nga, đã tuyên bố "có thể tự lo được" sau khi khéo dài việc sử dụng các nhà máy điện nguyên tử, khởi động lại điện than, thực hiện các chính sách khiến các doanh nghiệp cắt giảm và hạn chế dùng khí đốt mà chuyển qua dùng các nguồn năng lượng khác, khiến việc "thiếu khí đốt từ Nga sẽ không giết được nền kinh tế Đức".

Russian Gas Cuts Will Not Kill the German Economy by Daniel Gros - Project Syndicate (project-syndicate.org)

Không biết các bạn ủng hộ Nga sẽ còn dùng thêm những lý lẽ gì để "tăng khả năng thắng cho Nga": Vũ khí hạt nhân ? 100.000 lính Bắc Hàn ? - nhưng nhiều ngày trước đây mình đã nói: không cần lo cho bọn giàu đâu, tụi nó giàu mạnh được vì thực sự rất... giỏi, mà đã có thực lực thì sẽ tìm được cách vượt qua khó khăn thôi.

Tất nhiên giá cả, lạm phát sẽ tăng một vài tháng nữa, nhưng rồi sẽ được bình ổn và mọi thứ lại quay đầu, về như cũ. Hãy hiểu cách làm việc của phương Tây: không bao giờ "ngay và luôn" như lối suy nghĩ của nhiều người Việt, nhưng việc họ làm luôn đem lại kết quả cùng thời gian.

Ngay cả cách đánh nhau cũng vậy, mình rất mừng là người Ukraina đang lĩnh hội rất nhanh lối suy nghĩ phương Tây: chú trọng hiệu quả, cân nhắc kỹ cái giá phải trả, kiên nhẫn, đủ lợi mới làm - chứ không phùng phùng tẹt tẹt, to mồm nhưng dựa trên bịa đặt - nên rỗng tuếch như Nga.

Bởi kinh tế, xã hội, cuộc sống đòi hỏi suy nghĩ, nhận thức, trình độ hiểu biết... trong khi những thứ đó cần thời gian để thay đổi, hội nhập, thích nghi với điều kiện mới, mọi thứ thay đổi ào ào không đem lại những thay đổi mang tính nền tảng đâu.

Mà nền móng mới là quyết định. Thế kỷ 21 rồi, hình hạc, tiếng tăm vớ vẩn có làm ai tốt lên hay giải quyết được việc đâu ? Chỉ có suy nghĩ, hiểu biết, trình độ và thực lực. 

Mà tất cả những điều đó lại bắt đầu từ sự tử tế.



Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022

Không phải cờ tổ quốc vì không hề đại điện cho dân tộc Nước Nam

 Nhân cái chuyện Một người ở Trà Vinh bị bắt vì xé cờ nước VN và cờ Đảng

RFA

2022.04.21

Ông Lê Bá Chắc, 32 tuổi, bị Công an Huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh bắt tạm giam để điều tra theo Điều 351 Bộ Luật Hình sự về hành vi xé hai lá cờ Việt Nam tại trụ sở Công an và Ủy Ban Nhân dân xã An Trường, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

Mạng báo VnExpress vào ngày 20/4 cho biết, vào sáng thứ ba 19/4, ông Lê Bá Chắc chạy xe đến trụ sở Công an Xã An Trường và dùng xà beng đập phá khung nhôm, bảng hiệu rồi xé là cờ nước Việt Nam tại đó. Tiếp đến ông Chắc sang trụ sở UBND xã bên cạnh và xé cờ nước và cờ Đảng Cộng sản treo tại đó.

Tin nói khi Công an đến, ông Chắc bỏ chạy rồi leo lên nóc nhà dân, lên tiếng chửi lớn và gỡ ngói ném xuống lực lượng chức năng; tuy nhiên sau đó ông bị công an bắt.

Vào cuối tháng 7 năm ngoái, thanh niên 17 tuổi Nguyễn Vũ Anh ở huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang bị truy tố về tội xúc phạm quốc kỳ theo Điều 276 Bộ Luật Hình sự.

Tin nói Nguyễn Vũ Anh vào ngày 21/5/2021 sau khi uống rượu cùng bạn bè trên đường về nhà đã giật bốn lá cờ treo trước nhà dân nhân dịp bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 khiến một lá bị rách. Khi bị phát hiện Nguyễn Vũ Anh vứt những lá cờ bị giật xuống kênh xáng Xà No.

Một nhà hoạt động đang bị tù theo cáo buộc xúc phạm cờ Nhà nước Việt Nam là bà Huỳnh Thục Vy. Vào ngày 2/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tống đạt bản Cáo trạng trong đó quyết định truy tố cô Huỳnh Thục Vy với cáo buộc “Xúc phạm Quốc kỳ” theo điều 276 Bộ luật hình sự cũ năm 1999. Bộ Luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam quy định: “Người nào cố ý xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

Đến ngày 30/11/2018, tòa án tại Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk tuyên Huỳnh Thục Vy bản án 2 năm 9 tháng tù giam với cáo buộc ‘xúc phạm quốc kỳ’ theo Điều 276 Bộ Luật Hình Sự.

Bản án được đưa ra khi bà Vy đang có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên theo quy định của pháp luật Việt Nam, bà Vy không phải thực hiện án tù cho đến khi con tròn ba tuổi. Lúc bị kết án, bà Vy có một con gái nhỏ dưới ba tuổi và đang mang thai đứa con thứ hai.

Vào chiều ngày 1/12/2021 bà Vy bị bắt tại Đắk Lắk. Việc bắt giữ xảy ra chỉ vài chưa đầy một ngày sau khi bà Huỳnh Thục Vy đăng tải trên Facebook cá nhân quyết định đề ngày 30/11/2021 của Toà án Nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, nơi gia đình bà Vy cư trú, cho biết huỷ quyết định hoãn chấp hành án phạt tù đối với bà. Quyết định có hiệu lực từ ngày ký.

Hiện bà Huỳnh Thục Vy đang phải thụ án tại Trại giam Gia Trung cách nhà chừng 200 km.



Comment:

NTH: Chả hiểu nghĩ gì?

HNN: Anh thì hiểu, vì cái cờ đỏ sao vàng vốn không phải là của dân tộc Việt Nam, nó được Minh râu mang về từ Phúc Kiến, và vì nó là cờ máu đại diện cho bọn độc tài khát máu, nên người ta căm thù cái bọn độc tài thì ghét nó thôi.

NTH: Sao mọi người cứ chấp nhất mãi 1 điều đã có từ lâu và ko thể thay đổi? Hay ý mọi người muốn thay 1 lá cờ khác mới vừa lòng?

Lá cờ nó có lỗi vì nó đại diện cho cái điều anh nói kia?

HNN: Không, Nếu bọn độc tài cộng sản chúng nó mà tốt, thì có thể người ta đã chấp nhận nó. Cho dù là vậy thì vẫn còn có ai đó căm ghét lá cờ đó. Đương nhiên, bởi vì trong một đất nước, không bao giờ có một thể chế mà vừa lòng được tất thảy mọi người.

Sự yêu ghét một biểu tượng của bọn cầm quyền là đương nhiên.

Chẳng hạn như anh rất ghét bọn quan lại cộng sản. Thế nhưng những người đang lợi dụng quan lại cộng sản để kiếm ăn, thì họ phải ra sức để bênh vực chúng.

NTH: Trút lên lá cờ như là 1 cú tát vào mặt chế độ.

Có khác công nhân ngày xưa đập phá máy móc ko?

HNN: Ví dụ lá cờ này vốn trước đây là của Liên Xô, nhưng giờ nó đã bị xóa sổ.


HNN: Họ bức xúc với những sự áp bức mà họ phải chịu đựng, thì họ trút giận lên lá cờ.

Có điều ở Mỹ người ta có thể dẫm lên lá cờ Mỹ, đốt cờ Mỹ, không sao. Nhưng cộng sản nó lại bắt tội.



NTH: Người ta có thể đốt mà ko sao, nên người ta cứ thế đốt thì cũng chả ra làm sao. Em chả ủng hộ việc đấy dù là có bị bắt hay ko.

HNN: Việc ủng hộ hay không là tùy quan điểm từng người, ở Mỹ nó có quy định lá cờ là không được vất xuống đất, và không được dẫm lên.

Nhưng nó không đưa vào luật hình sự để từ đó dùng luật để bắt nạt người ta như ở cộng sản.

Nó giống như việc đi chơi Noel vậy.

Người nào thích thì đi, không thích thì không đi.

Nhưng nếu kẻ nào đó dùng quyền lực để cấm người ta đi chơi Noel thì lại là mọi rợ.

Và bọn cộng sản dùng quyền lực để bắt người ta phải tôn thờ cái mà người ta căm ghét thì càng gây phẫn nộ.

Ở Mỹ, bao giờ cũng có 1 nửa dân số căm ghét chánh quyền Mỹ: chưa bao giờ thấy có ông nào trúng cử tổng thống mà có số phổ thông đầu phiếu vượt quá 55% cử tri.

Thế nhưng ở "xứ Thiên Đường" thì cộng sản nó bắt 99.99% mọi người phải yêu đảng, yêu chánh quyền, nếu ai xúc phạm chánh quyền một tí thôi là sẽ bị xử đẹp.

Ở xứ cộng sản, có thể tham nhũng thoải mái, buôn lậu vô tư, ăn cắp ăn cướp tràn lan, nhưng CẤM nói thật về những thứ xấu xa của chánh quyền.

Tự tô vẽ mình thành thánh - giống nhau nhỉ!


NTH: Bác Hồ mất rồi a ạ

HNN: Giá kể ông ấy đừng viết sách tự khen mình "những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của bác hồ" để lừa bịp bao nhiêu thế hệ người Việt, thì người ta cũng kệ ông ấy thôi.
Nhưng cái hậu quả mà ông ấy để lại thì đến bây giờ vẫn to đùng.
Nên ông ấy chết mè không yên là vì vậy.


NTH: E thấy Bác cũng chả yên vs ko yên đâu, chỉ có người còn sống cứ cố chấp mãi mãi.

HNN: Người ta sẽ còn nói mãi, giống như bây giờ người ta vẫn nói về Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống cũng vậy.

Ông Minh râu là người khôn lỏi và tham lam quyền lực và kém thông minh chứ không yêu nước thương dân như họ vẽ, thế nên ông ấy đã làm hại cả cái dân tộc này trong suốt mấy chục năm qua, bao triệu người phải bỏ mạng vì cái sự tham lam của ông ấy, thì làm sao mà người ta có thể bỏ qua được.

NTH: Thế ạ?

HNN: Nếu em muốn nghe anh trình bầy, anh sẽ trình bầy tóm tắt.

NTH: Okie a.

HNN: Thứ nhất (1), năm 1911 ông ấy lên tàu "đi tìm đường cứu nước" - em nghĩ là thật sao? Làm sao người khác biết được? Vì vậy chắc chắn chuyện đó không thể được kể từ người ngoài phải không. Mà rõ ràng sau này khi đã nắm quyền ông ấy bịa ra chuyện đó để cho bên tuyên giáo tuyên truyền thôi.

Em sẽ nói là anh nghe phản động nói xấu ông ấy.

Nên anh sẽ không kể chuyện thực sự vì sao ông ấy chạy lên tàu. Vì thực ra bằng chứng video clip không có.

Anh chỉ nói mấy điều sau:

a) Khi 21 tuổi - là một thằng nhóc - làm gì có ai biết ông ấy là ai.

b) Anh là thuyền viên - nên anh biết chắc chắn: Không bao giờ một người tay không mà lại được lên tàu làm "đầu bếp" - Đùa! "đầu bếp" cho thuyền viên phải có bằng cấp, nấu cho thuyền viên người Việt ăn mà không ngon còn bị đuổi như chơi. Đằng này lại là tàu tây, mà không phải là tàu thường mà là tàu chiến. Lính Hải Quân Tây có hiền mấy cũng không thể ăn mấy thứ không nuốt nổi.

Đầu bếp giỏi nhất VN bây giờ mà muốn nấu món Tây cũng phải học.

Vì vậy chuyện xin lên tàu chiến của Tây để làm đầu bếp - Bịa đặt 100%.

Vậy ông ấy lên đó làm gì? Rửa bát ư? Cũng không đủ tiêu chuẩn.

Bọn Lính Tây Trắng vốn kỳ thị chủng tộc lại để một thằng nhóc nghèo nàn đen hôi đụng vào bát đũa của chúng sao?

Okie! Ông ấy làm gì? Anh không muốn nói cái mà họ nói, vì anh không có bằng chứng.

c) Có một cái bằng chứng - chứng minh rằng ông ấy không hề có ý định tìm đường cứu nước gì cả. Vì ông ấy đã viết một tờ đơn xin học ở Học Viện Hành Chính Paris.

Cái tờ đơn này sau đó được Học Viện Hành Chánh Paris chuyển cho bảo tàng Lịch Sử nước Pháp.

Em có thể dễ dàng tìm thấy trên internet.

NTH: Ko biết anh nghĩ thế nào chứ e nghĩ chả có ông nào kể với lịch sử là trước tao khổ quá, tính ra nước ngoài để đổi đời, sau tiện thấy 1 đường lối có thể giúp gì dân tộc hay bản thân thì tao lại về. Còn chuyện làm nghề gì, thì trừ khi buôn người bài bạc, nếu ko dù là cọ wc cũng chả vấn đề gì. Còn nếu câu chuyện lại là sao ko nói đúng nghề phải chọn nghề khác, thì cho nó đỡ quá buồn hình ảnh 1 vị lãnh tụ dân tộc từng phải trải qua quá nhiều khổ sở…

HNN: Có thể trường hợp của ông Minh râu đúng như em nói.

Nhưng cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Châu Trinh thì cả phe đỏ và phe đen đều khẳng định 2 cụ đó thực sự ra nước ngoài để tìm đường cứu nước.

Thời cuối Thế Kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tất cả mọi người VN đều ghét Pháp, chắc chỉ có đám con buôn (doanh nhân) kiếm được tiền từ sự đô hộ của Pháp thì họ không ghét Pháp, giống như bọn không ghét Tàu Khựa thời nay.

Lúc đó mọi tầng lớp Trí Thức, Nông dân, Công nhân, Thổ Phỉ đều ghét Pháp.

Nhưng do trình độ khác nhau nên cách chống Pháp khác nhau. Và vì vậy họ không đồng ý với nhau, không đoàn kết với nhau.

Dưới đây là cái tính cách thứ nhì của Mr. Bác

(2) Sự khôn lỏi của ông Minh râu: Cái tên Nguyễn Ái Quốc là Minh râu đánh cắp của cả một tổ chức:

Sau khi vô tình chạy lên cái tàu Tây ở bến Nhà Rồng do không biết bơi, nhờ sự nhân đạo của mấy ông Lính Tây, ông ta được đi nhờ sang tận Pháp. Lúc đó cụ Phan Châu Trinh đã là một người rất nổi tiếng vì cụ là người đi đầu trong phương pháp Đòi Dân Chủ cho Việt Nam, cụ có một câu nói nổi tiếng "Phải có Dân Chủ, con người mới được tự do. Cho dù đuổi Pháp để dựng lên một nhà nước độc lập, mà không có Dân Chủ thì dân vẫn bị cướp bóc áp bức" - Câu nói này của cụ từ hơn 120 năm trước đang đúng y như VN lúc này.

Cụ Phan Châu Trinh có một tổ chức tại Pháp đấu tranh đòi dân chủ cho VN một cách ôn hòa.

Lúc đó "thằng nhóc 21 tuổi" Nguyễn Sanh Cung mới lóp ngóp sang Pháp đi tìm người giúp đỡ nên đã tìm đến xin cụ Phan Châu Trinh xin được giúp đỡ.

Thì đương nhiên cụ Phan đã cưu mang.

Khi đó tổ chức của cụ Phan mỗi khi viết báo, hay viết cáo trạng tố cáo thực dân Pháp, hoặc viết công hàm đòi dân chủ cho Việt Nam, vân vân... thì cụ Phan và tổ chức của cụ đều ký một cái tên chung là Nguyễn Ái Quốc.

Sau đó, Minh râu đã đánh cắp cái tên này.

Rồi khi hắn viết lịch sử tự khen mình, hắn đã không nói gì đến cái tên Nguyễn Ái Quốc là do hắn ăn cắp từ tổ chức của  cụ Phan. 

(3) Cái đặc điểm thứ 3 của ông Minh là kém thông minh: Một người thông minh mất công ra nước ngoài để quan sát và học hỏi thì sẽ không bao giờ có thể thích Chủ Nghĩa Cộng Sản hơn Tư tưởng Dân Chủ Tự Do.

Chủ Nghĩa Cộng Sản = Kêu Gào Bình Đẳng Cào Bằng = Làm theo Năng Lực Hưởng Theo Nhu Cầu = Một Người có Não bình thường sẽ nhận ra ngay xã hội kiểu đó là một xã hội Bất Công Bằng và Không Tưởng.

Làm Theo Năng Lực là kém thì làm ít, giỏi thì làm nhiều, Hưởng Theo nhu cầu là dù kém hay giỏi đều có quyền hưởng như nhau.

Xã hội loài người sẽ không bao giờ tồn tại được một cơ chế như vậy.

Vậy mà ông Minh lại thích cái đó để đem về dụ dỗ dân ta.

Ông ấy hẳn phải là rất kém thông minh.

Hoặc ngược lại ông ta rất khôn lỏi và biết rằng cái "lý thuyết này thật là rất dễ dàng đem về lừa dân để tập hợp lực lượng".

NTH: Đúng là cái quả "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu" hồi học triết e cũng thấy vô lý!

HNN: (4) Cái thứ tư: Chọn nhầm phe hay thực sự là muốn chọn phe đó:

Như đã nói ở trên, thời điểm đó mọi người Việt đều ghét Pháp.

Tuy nhiên, phương pháp đấu tranh khác nhau.

Nổi tiếng có cụ Phan Châu Trinh và cụ Phan Bội Châu.

Sau thời 2 cụ đó thì đến thời Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm nổi lên là một chánh trị gia toàn tài, xuất thân trí thức, kết hợp những ưu điểm của cả 2 cụ Phan và đồng thời tính dân tộc của Ngô Đình Diệm rất cao.

Tuy nhiên, vì xuất thân là trí thức nên Ngô Đình Diệm sẽ không bao giờ hứa những thứ mà ông ấy biết chắc chắn không làm được.

Ngược lại, lúc đó Việt Minh như là một đội quân thổ phỉ. Nó mang tính thổ phỉ ngay từ đầu. Bằng chứng là Trần Phú đã nói một câu cực kỳ sắt máu: "Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ".

Ặc, nếu vậy thì có nghĩa là giết sạch sành sanh toàn bộ giới tinh hoa, giới có não và giới biết kiếm tiền.

Một đặc điểm thứ nhì của thổ phỉ: Đó là không cần bàn cãi. Ai trái lệnh là trảm. Nện một cái bùa vào đầu.

Chính vì vậy Việt Minh tạo ra được một kỷ luật thép trong đảng phỉ.

Và toàn những tay anh chị trong xã hội đã tham gia vào đảng phỉ. Điển hình một đầu gấu là Sáu Búa (Lê Đức Thọ) đã tham gia vào đảng phỉ và sau này leo lên rất cao.

Ông Minh từ nước ngoài về, không học được cái hay vì kém thông minh, và về nước ông ấy không chọn tham gia vào giới trí thức mà chọn tham gia vào phe Thổ Phỉ.

Chính vì là thổ phỉ nên bọn họ toàn hứa những thứ mà chắc chắn không thực hiện được:

Họ hứa: Giúp họ cướp chánh quyền thì khi họ có chánh quyền họ sẽ không bao giờ thu thuế một ai cả. Trời đất - một lời bát nháo như vậy mà cũng nói ra được.

Mà lời nói bát nháo đó cũng khiến cho cực kỳ đông người tin theo.

Khi đó người ta chỉ cần nghĩ đơn giản thế này: "Không thu thuế thì tiền đâu mà nuôi quân đội. Không nuôi được quân đội thì lấy gì bảo vệ độc lập nước non?" - người ta sẽ nhận thấy ngay sự láo toét của câu nói đó.

(5) Cái thứ năm này mới là nặng nề nhất: Cái tội lớn nhất mà ông Minh để lại cho đến ngày nay chính là xuất phát từ cái sự tham lam quyền lực của ông ấy. Hoặc là do sự ngây thơ chánh trụy và kém cỏi của ông ấy trong vấn đề chánh trụy. Hoặc là ông ấy chẳng có tí thực lực nào trong đảng phỉ mà chỉ là một cái bình phong để đảng phỉ dựng lên rồi lợi dụng.

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1941: Lúc đó Nhật Bản xâm lược toàn bộ Đông Á và Úc châu, nguyên một vùng rộng lớn trải dài từ Nam Hàn, Triều Tiên, Mãn Châu, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Phi-lip-pin, Úc Châu đều hoặc bị Nhật cai trị 100% hoặc 90%.

Nước Đông Dương thuộc Pháp (gồm 5 vùng Lào, Cam-pu-chia, Bắc Bộ, Trung Phần, và Nam Phần), cùng từ 1941 trở thành phụ thuộc vào cả Pháp và Nhật, Nhật quản lý mọi thứ chỉ cho phép Pháp duy trì cơ quan quản lý hành chánh mà không được có quân đội.

Từ đó chính quyền bù nhìn của vua Bảo Đại đeo 1 cổ 2 tròng là Pháp và Nhật.

Chế độ đó duy trì đến tận năm 1945.

Đến tháng 3 năm 1945, Nhật xem ra sẽ thất trận và phải rời bỏ những nơi đang cai trị và rút về Nhật.

Tuy nhiên, để chuẩn bị cho hậu chiến, Nhật Bản vẫn muốn có một mối quan hệ với những nước chiếm đóng.

Vì vậy, Tháng 3 năm 1954 Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam trên danh nghĩa. Và Đế Quốc Việt Nam ra đời.

Khi Đế Quốc VN ra đời, Vua Bảo Đại cần thành lập chánh phủ mới, vì lúc đó các vị Thượng Thư (Bộ Trưởng) đều không biết phải làm việc như thế nào với cái cơ chế chánh quyền Vua ~ Thủ Tướng.

Lúc đó giới trí thức được vua Bảo đại triệu gọi rất nhiều.

Tuy nhiên, vì chỉ là "độc lập trên danh nghĩa" nên mọi thư triệu gọi của vua đều đi qua tay của người Nhật, do đó một nhân vật quan trọng nhất lại không nhận được thư là ông Ngô Đình Diệm.

Và Giáo Sư nổi tiếng nhất, tâm huyết với giáo dục thời đó nhất là cụ Trần Trọng Kim được bổ nhiệm vào chức vụ Thủ Tướng.

Chánh phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại có khoảng 120 ngày gì đó, nhưng đã làm được một số việc quan trọng như cứu đói, thành lập quân đội độc lập, thành lập các cơ quan hành chính do người Việt đảm nhận, vân vân, nhưng việc quan trọng nhất là việc thống nhất lãnh thổ: Thông qua nhiều lần đàm phán với Nhật, chánh phủ Trần Trọng Kim đã đạt được thỏa thuận rằng toàn bộ Bắc Bộ, Trung Phần và Nam Phần được trả về cho Đế Quốc VN 100%, Nhật hay Pháp không giữ lại bất cứ một Đặc Khu hay một Tô Giới nào.

Song song với việc Chánh Phủ Trần Trần Trọng Kim vật lộn để vận hành nhà nước non trẻ thì các đảng phỉ lại đánh cướp ở khắp nơi.

Lúc đó đảng phỉ Việt Minh dùng lý do "đánh Pháp đuổi Nhật" để vận động việc "cướp" chánh quyền.

Các đảng phỉ khác cũng làm việc tương tự.

Khi đó, chính ông Trần Trọng Kim đã yêu cầu Việt Minh đến đàm phán và nói rằng "Chúng ta nên dừng việc đánh giết và cướp bóc lại, hãy bước ra ánh sáng, tham gia vào chánh quyền như một lực lượng chánh trị đại diện cho lợi ích người lao động và giành lấy sự lãnh đạo bằng lá phiếu".

Nhưng Việt Minh đã từ chối thẳng thừng và nói "Chúng tôi sẽ cướp lấy chánh quyền bằng bạo lực cách mạng".

Sau đó, Phía Nhật có gợi ý với Thủ Tướng Trần Trọng Kim là họ sẽ dùng quân đội để tiêu diệt đảng phỉ.

Trần Trọng Kim đã từ chối và nói: "Khi họ đi cướp thì họ đứng lên hàng đầu. Nhưng nếu họ bị đánh, họ sẽ trốn thật sâu, và họ đẩy dân lên phía trước. Lúc đó đổ máu chỉ toàn là dân đen mà thôi".

Đến Tháng Tám năm 1945, Việt Minh thực sự đã cướp được chánh quyền. Và ngày 2/9/1945, ông Minh râu tuyên bố độc lập, mặc dù trước đó Đế Quốc Việt Nam đã độc lập rồi.

Nhưng cái sai của ông Minh là ông ta dốt đến mức không hiểu được rằng cái chánh quyền từ đảng phỉ của ông ấy không bao giờ được công nhận cả. Vì thế giới và quân đội Đồng Minh không hề biết đến các ông ấy như là một lực lượng đại diện hợp pháp cho VN.

Chính quyền duy nhất có thể đại diện cho Việt Nam để tiếp đón quân đội Đồng Minh một cách đàng hoàng và hợp pháp không gây ra đổ máu là chánh quyền của vua Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim.

Vì tham lam quyền lực, họ đã không nghĩ đến hòa bình và ổn định cho quốc gia dân tộc. Họ không tham gia vào chánh quyền như một đảng chánh trị hợp pháp. Mà họ muốn cướp chánh quyền để rồi khi quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật thì quân Đồng Minh kết luận "ở VN không có chánh quyền nên trả lại nó cho chủ cũ tức là Pháp" (vì Nhật xâm lược Đông Dương khi Pháp quản lý).

Thế là dân VN đã kiệt sức sau 80 năm bị Pháp cai trị, lại phải lao vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn từ 1945 đến 1975.

Đó chính là cái tội tày đình mà Minh râu để lại.

Cái tội thứ 2 là ngày nay, cộng sản quản lý đất nước này cũng với những hành vi của thổ phỉ.

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2022

Trần Quốc Vượng - NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ


NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ.
GS Sử học - Trần Quốc Vượng (1934 - 2005).
Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ 20.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na là MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lay lắt qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy...
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông tác giả chính của cái “Đề cương” đó đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”.
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thầy mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy: Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
***
Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con!... Một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
***
Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ 20, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác - Lê thế kỷ 19. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
***
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ VI CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
"Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng"!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày - khảo cổ ,đêm - khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác - Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
***
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!

Cornell 01/5/1991.