“Kim chỉ nam” là gì?
Chắc hẳn nhiều người
đã biết thuật ngữ này, và hẳn cũng đã nhiều người dùng thuật ngữ này.
Nhưng có lẽ dùng theo
thói quen là chính.
Thuật ngữ “kim chỉ
nam” là một thuật ngữ trộn giữa tiếng Việt và tiếng Việt-Hán.
Trong tiếng Trung
có một từ là 指南針 đọc sang âm Việt-Hán là Chỉ Nam Châm. 指南針 dịch sang tiếng English là “compass”. Từ “compass”
dịch sang tiếng Việt là “la bàn”. Từ “la bàn” này có gốc một trăm phần trăm là tiếng
Hán là La羅盤Bàn.
Ý là cái la bàn (compass),
trong tiếng Trung có thể dùng hai từ 指南針Chỉ Nam Châm hoặc La羅盤Bàn.
Chỉ 指 là động từ “chỉ” – nghĩa là chỉ trỏ về hướng nào đó.
Nam 南 là phía nam, phương nam, ngược với hướng bắc.
Châm 針 là cây kim, như cây châm cài tóc chẳng hạn.
Khi người Hán nói
đến cái “la bàn” họ dùng từ “chỉ nam châm” – thì dân ta sẽ nói là “kim chỉ nam”.
Trước đây đi đường
còn chưa có các “app navi” kiểu như “gúc-gờ-mép” thì người ta phải dùng la bàn,
đặc biệt là đi rừng và đi biển. Do đó cái “chỉ nam châm” hoặc cái “kim chỉ nam”
là không thể thiếu được.
Dần dà, cái từ “kim
chỉ nam” được người Việt văn học hóa nó thành trìu tượng như ngày nay.
Cái “chỉ nam châm”
(kim chỉ nam) có một đặc tính là bị từ trường trái đất điều chỉnh. Bởi vì chính
nó có từ tính. Và vì vậy nó hút sắt hoặc bị sắt hút. Vậy thì một cục sắt có từ tính
nó cũng có tính chất giống như cái “chỉ nam châm” – Mặc dù cục sắt đó đâu có giống
hình cái kim, nhưng người Việt dùng luôn cái tên “nam châm” để đặt tên cho cái cục
sắt từ tính đó.
Thế là càng ngày cái
“kim chỉ nam” càng trở nên trìu tượng và bí ẩn, và cái bọn chánh trụy gia thì rất
thích nói những gì mù mờ, nên “kim chỉ nam” lại như cá gặp nước. Nông dân tá điền
đâu có hiểu “chỉ nam châm” là cái thứ quái gì đâu, nhưng thấy nó tuôn ra từ miệng
những kẻ nói hay thì tự tôn chúng thành thánh.
Ka ka… cứ như vậy,
thì cả ngàn năm sau cái bọn nói láo gần 100 năm qua vẫn không bị lật mặt. 😂
Rồi, bây giờ Jack
Sparrow hãy lấy la bàn (compass) ra và lên đường thôi.😁
😄Cái thú vị của
ngôn ngữ là có rất nhiều trường hợp người ta dùng cách nói theo thói quen chứ
không có một nguyên tắc nào cả.
Ví dụ như trên
lon beer, chữ viết là Mạch麦酒 Tửu
nhưng họ nhất định chỉ đọc là ビール
(beer) chứ không đọc phát âm của chữ Mạch Tửu – túm lại viết thế này 麦酒 chỉ là để hiểu nghĩa của
nó, viết một đằng mà nói lại một nẻo.
Một ví dụ thứ nhì
là món Bạch Tuộc (たこ) Nướng (焼き) thì cả viết và nói đều là たこ焼き
(ta-ko-ya-ki). Thế nhưng Gà Nướng thì lại bị đảo lại thành Nướng Gà
(ya-ki-to-ri) 焼き鳥 –
chữ Điểu鳥 là con chim – trong tiếng
Nhật là con gà.
Hôm nay có một chuyện, trong văn phòng công ty có một cái máy chế nước uống, trên đó có một nút chức năng là ミルクティー (mi-rư-kư-ti) tức là phiên âm từ “milk tea”, chữ này trong tiếng Việt nói thành “trà sữa”. Cái thú vị ở đây là không người Việt nào đồng ý với cách nói “sữa trà”. Cũng tương tự như vậy, người Nhật cũng dùng từ Ngưu牛乳Nhũ để nói từ “sữa”, và từ Trà茶 để nói từ “trà”. Thế nhưng khi một tay người Việt cắc cớ cố tình ghép chữ牛乳茶 (gyū-nyū-cha) để nói “trà sữa” – thì người Nhật nhất định không chấp nhận. 😀
Người ta nói ngôn ngữ là sinh ngữ, ý là nó là cái gì đó luôn luôn biến đổi, thậm chí nó biến đổi từ cái không có thành cái có.
Trả lờiXóaTrong tiếng Hán có một thành ngữ là Không Tiền 空前曠後 Khoáng Hậu. Câu này là một câu sử dụng trong nghề "phong thủy", thường để nói về một mảnh đất, một khu vực có phía mặt tiền (phía trước) không bị che chắn, rộng rãi Không空前Tiền, và phía sau của mảnh đất hoặc khu vực đó cũng rất rộng rãi và thoáng đãng Khoáng 曠後 Hậu.
Tuy nhiên, bằng cách nào đó, thành ngữ "không tiền khoáng hậu" này bị người Việt nói thành "vô tiền khoáng hậu" nhằm ám chỉ một sự kiện đã diễn ra đỉnh đến mức là "trước đây chưa hề có, và sau này cũng không dễ mà có".
Và cách sử dụng "vô tiền khoáng hậu" đó cứ mặc nhiên được chấp nhận từ bao giờ không biết và sẽ còn được chấp nhận mãi mãi về sau.