Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

NOBEL Hòa Bình - Nhiều dấu chấm hỏi?????

Bài của Vũ Linh trên Diễn Đàn Trái Chiều http://haspot.com/2025/10/bai-408-ve-giai-nobel-hoa-binh.html#more

BÀI 408: VỀ GIẢI NOBEL HÒA BÌNH

     Sau khi Ủy Ban Nobel quyết định tặng giải Nobel Hòa Bình năm 2025 cho Cô María Corina Machado của Venezuela, mà không cho TT Trump, đám cấp tiến hể hả vui mừng như trúng số Power Ball, và đám lâu la vẹt tị nạn hý hửng nhai lại, còn thêm ít nước mắm nhĩ cho đậm đà. Cộng đồng Việt ít hiểu biết về các giải Nobel của cái xứ khỉ ho cò gáy Na Uy đâm ra bối rối, không hiểu rõ chuyện gì đã xẩy ra. Kẻ này xin có bài viết chi tiết hơn để rộng đường dư luận.

    Ta tìm hiểu xem sao.

    Giải Nobel Hòa Bình không phải là giải Nobel duy nhất, mà giải Nobel còn được trao tặng cho những nhân vật nổi bật trong vài phạm vi khác như văn chương, y học, lý, hóa,... Nhưng giải Nobel Hòa Bình có điểm đặc biệt khác với tất cả các giải Nobel khác vì giải về hòa bình là giải duy nhất lạ lùng thay lại do Na Uy chọn, không như các giải khác do Thụy Điển chọn. Ở đây, ngay câu chuyện này cũng phản ảnh hướng đi thật sự của giải Nobel Hòa Bình.

    Trước hết, phải nói ngay cho rõ, giải Nobel do ông Alfred Nobel người Thụy Điển, 'sáng chế' ra và tặng. Alfred Nobel là một người đa tài, một kỹ sư, một nhà hóa học đã sáng chế là 'thuốc nổ' dynamite, cũng là một doanh gia rất thành công. Ông sanh ra năm 1833, qua đời 1896. Ông chết đi, để lại gia tài tưởng thưởng cho những nhân tài đặc biệt được chọn lãnh giải bây giờ gọi là giải Nobel. Tiền thưởng cho mỗi giải Nobel là khoảng một triệu đô, nếu có nhiều người được giải thì số tiền đó được chia đều. Số tiền này lấy từ gia tài của ông Nobel. Khi ông qua đời, ông đã để lại gia tài, trị giá tương đương với cả trăm triệu đô bây giờ. Gia tài của ông Nobel được quản trị bởi một quỹ -foundation- đặc biệt, đầu tư sinh lời mỗi năm, do dó, tiền giải thưởng còn dư giả cho rất nhiều năm nữa. Nói trắng ra, đây là một giải có tính cá nhân, của riêng ông Nobel tặng.

    Khi ông viết di chúc khai sinh ra giải Nobel, vài năm trước khi chết, Na Uy và Thụy Điển là hai nước có chính phủ riêng, có quốc hội riêng, nhưng lạ lùng thay, lại là MỘT vương quốc dưới MỘT ông vua. Một trong những chuyện quái lạ của chính trị Âu Châu trong các thế kỷ trước. Thụy Điển khi đó có một chính quyền chẳng những bảo thủ mà còn hiếu chiến, ôm mộng mang quân đi xâm chiếm nước khác, trong khi Na Uy lại có một chính quyền rất yêu chuộng hòa bình chống chiến tranh., lại còn có khuynh hướng cấp tiến thiên về xã nghĩa. Từ đó, ông Nobel là người Thụy Điển dặn dò các giải Nobel sẽ do một ủy ban Thụy Điển lựa chọn, riêng giải về Hòa Bình phải do Na Uy chọn. Ngay từ ngày khai sanh, cấp tiến thiên tả -leftist liberalism- đã là yếu tố quan trọng nhất của giải về Hòa Bình.

    Ông Nobel có lẽ vì đã sáng chế ra thuốc nổ dynamite, nên bị mặc cảm tội lỗi, sau đó, chủ hòa tối đa, lập ra một giải thưởng đặc biệt cho người chủ hòa, mà lại phải để cho nhóm cấp tiến Na Uy quyết định, chứ không cho dân Thụy Điển khi đó rất bảo thủ và còn có khuynh hướng hiếu chiến, bành trướng ảnh hưởng nữa như vừa viết qua. Giải Nobel Hòa Bình do một Ủy Ban gồm đúng 5 thành viên, tất cả đều do quốc hội Na Uy chọn và bổ nhiệm.

    Ông Nobel cũng bỏ công ra viết rất rõ về tiêu chuẩn để nhận giải Hòa Bình: phải là người đã "bỏ công nhiều nhất hay thành công nhất để phát huy tình hữu nghị giữa các quốc gia, để hủy bỏ hay giảm các lực lượng quân sự, và để duy trì và phát huy hòa bình" (nguyên văn tiếng Anh "... done the most or the best work for fraternity between nations, for the abolition or reduction of standing armies, and for the holding and promotion of peace congresses).

    Nguyên thủy, rõ ràng đây là giải 'hòa bình', theo đúng nghĩa của nó, là giải cho người có công lớn nhất phát huy tình hữu nghị giữa các quốc gia và hòa bình thế giới. Thế nhưng sau này, giải Nobel Hòa Bình đã biến thái, trở thành một giải dành người phát huy tinh thần cấp tiến hay những chủ trương của khối thiên tả xã nghĩa, như phát huy tinh thần dân chủ, làm các công tác tranh đấu cho nhân quyền, lo bảo vệ phụ nữ, cho các tổ chức giảm nghèo chống đói, công bằng, nhân đạo, lo bảo vệ môi trường và khí hậu,... chẳng một ly liên quan dính dáng gì tới những tiêu chuẩn hữu nghị hay hòa bình thế giới ông Nobel nêu ra ngay từ đầu.

    Ta thử nhìn lại một vài người Mỹ đã được giải này gần đây:

Obama: trường hợp hy hữu có một không ai. Cho tới bây giờ, Ủy Ban vẫn lúng túng chưa giải thích thỏa đáng tại sao Obama lại nhận được giải này, đã làm những gì để xứng đáng được giải? Trong khi thực tế, Obama trước và sau khi đã được giải, đã chẳng đóng góp gì cho hòa bình thế giới khi ông tiếp tục các cuộc chiến của TT Bush con tại Iraq và Afghanistan, tiếp tay với Pháp và Anh lật đổ Muammar Gadhaffi của Libya, biến xứ này thành một xứ của loạn sứ quân khủng bố Hồi giáo tranh dành quyền lực, giết nhau túi bụi cho tới nay, suốt 14 năm qua. Sự thật là qua việc trao giải Nobel Hòa Bình cho Obama, Ủy Ban Nobel muốn gửi một thông điệp kêu gọi chấm dứt kỳ thị chủng tộc trên thế giới, chứ không phải để tưởng thưởng bất cứ công trạng 'tàng hình' nào của Obama. Ở đây cần ghi nhận Ủy Ban khóa sổ đề cử ít ngày sau khi Obama tuyên thệ nhậm chức, nghĩa là Ủy Ban cứu xét những tuyên truyền vận động tranh cử của Obama, chứ khi khóa sổ đề cử, chưa ai thấy Obama làm gì hết, nên chẳng ai hiểu Obama được giải vì lý do nào.

Carter: cũng chẳng làm gì để phát huy hòa bình thế giới hay ngay cả 'hữu nghị' giữa các quốc gia. Ông Carter nhận được giải 20 năm sau khi hết làm TT, vì đã có công giúp xây cất nhà tiền chế rẻ tiền cho dân nghèo Mỹ. Cũng chỉ là cách phổ biến tư tưởng nhân đạo, giúp người nghèo, chẳng có gì liên quan gì tới hòa bình thế giới hay hữu nghị thế giới.

Al Gore: nhận được giải vì có công tích cực đi vận động bảo vệ khí hậu, chống hâm nóng địa cầu. Đây là một lý thuyết của phe cấp tiến đưa ra, chưa có sự thống nhất ý kiến của tất cả các khoa học gia. Nghĩa là Ủy Ban Nobel đã chọn một thế đứng phe đảng hiển nhiên, lộ liễu nhất, khi chấp nhận thuyết của Gore và cho ông ta giải Nobel. Mà cũng chẳng một ly liên hệ gì tới chuyện hòa bình trên thế giới.

    Dưới đây là danh sách và thành quả của 5 người hay tổ chức cuối cùng đã nhận được giải Nobel Hòa Bình:

  1. 2024: Nihon Hidankyo, là một tổ chức của những nạn nhân hai trái bom nguyên tử thả trên Hiroshima và Nagasaki trong Đệ Nhị Thế Chiến. Tổ chức này vận động chống vũ khí nguyên tử; được giải có vẻ chính đáng. 
  2. 2023: bà Narges Mohammad, người Iran, tranh đấu cho quyền bình đẳng phụ nữ chống các giáo chủ Hồi giáo Iran; chẳng liên quan gì tới hòa bình thế giới.
  3. 2022: 3 trung tâm tranh đấu cho nhân quyền tại Belarus, Nga, và Ukraine; ý định của Ủy Ban là cổ võ cho nhân quyền trong 3 xứ cựu CS, chẳng liên quan gì tới hòa bình thế giới. 
  4. 2021: bà Maria Ressa và ông Dmitry Muratov vì tranh đấu cho nhân quyền tại Phi Luật Tân và Nga; chẳng liên quan gì tới hòa bình thế giới.
  5. 2020; tổ chức World Food Program vì tích cực giúp chống đói tại Phi Châu; chẳng liên quan gì tới hòa bình thế giới.

    Nghĩa là trong 5 năm qua, giải Nobel Hòa Bình đã chỉ có lý do chính đáng theo tiêu chuẩn nguyên thủy của ông Nobel đúng một lần, còn lại thành tựu của những người hay tổ chức nhận giải chẳng liên quan gì tới tình hữu nghị hay hòa bình thế giới, tuy có ý nghĩa nhiều về nhân đạo hay nhân quyền.

    Mới đây nhất, Ủy Ban đã trao giải cho cô María Corina Machado của Venezuela. Cô này là người kiên trì và cực kỳ can đảm dám một thân một mình đứng lên chống lại tay độc tài thân cộng, TT Venezuela Nicolas Maduro, đòi dân chủ cho xứ của cô. Một người yêu nước và thương đồng bào của mình. Một người thật sự đáng kính phục. Nhưng công tâm mà nói, trong các tiêu chuẩn nguyên thủy của ông Nobel đưa ra về giải Hòa Bình, cô Machado đã chẳng đạt được bất cứ một tiêu chuẩn nào. Cô đã chẳng làm bất cứ gì để phát huy tình hữu nghị quốc tế, chẳng có một ly ảnh hưởng nào về việc giảm quân lực Venezuela (trái lại, vì sự chống đối của cô Machado và các đồng minh của cô, Maduro đã tăng cường rất mạnh guồng máy công an cảnh sát đàn áp dân, khiến không biết bao nhiêu người chống đối đã bị bắt, đánh đập, tra tấn, nhốt, tù, thậm chí giết, thủ tiêu luôn, là những việc hoàn toàn đi ngược lại mục tiêu hòa bình cho nhân loại của ông Nobel), cũng chẳng duy trì hay tái tạo hòa bình cho bất cứ xứ nào, kể cả xứ Venezuela của chính cô.

    Công bằng mà nói, giải Nobel cũng đã được trao cho ít người thật sự có công mang lại hòa bình nơi nào đó, chấm dứt chiến tranh đẫm máu nào đó. Chẳng hạn như đã trao giải cho Kissinger và Lê Đức Thọ sau khi Hòa Ước Paris được ký giúp Mỹ tháo chạy về nước cũng như giúp VN có 'hòa bình' lại trong tay đám CSBV, cũng như đã trao giải cho Yasser Arafat, tay khủng bố tàn bạo Palestine và các thủ tướng Do Thái Shimon Peres và Yitzhak Rabin sau khi những người này ký hòa ước ngưng chiến tranh Do Thái-Palestine. Nhưng ở đây, Ủy Ban Nobel đã phạm hai sai lầm vĩ đại:

  • Tưởng thưởng những đao phủ tay dính đầy máu là Lê Đức Thọ và Yasser Arafat. Vâng, Đức Phật có dạy 'bỏ dao xuống là có thể thành Phật', nhưng đó là chuyện tôn giáo rao giảng, Ủy Ban Nobel không phải là tôn giáo gì hết; 
  • Tưởng thưởng những đao phủ quá sớm, để rồi hòa bình mà Ủy Ban Nobel hoan nghênh chẳng thọ được bao lâu. Chẳng bao lâu sau khi ký hòa ước và được giải Nobel Hòa Bình, cả hai tay Lê Đức Thọ và Yasser Arafat đều vứt giải vào nhà kho, lôi súng ra bắn giết tiếp tục. Cuộc chiến của Lê Đức Thọ chỉ chấm dứt sau khi CSBV chiếm được toàn thể miền Nam, và LĐT biết rất rõ mình đang bận làm gì nên không dám nhận giải. Trong khi cuộc chiến của Palestine vẫn kéo dài tới ngày nay.

    Việc chuyển hướng các tiêu chuẩn để được giải cũng như những quyết định thực tế trao giải cho ai của Ủy Ban Nobel đã khiến giải này, tuy vẫn còn nổi tiếng, mất nhiều giá trị trong mắt của thiên hạ công tâm. Bây giờ, người ta chỉ coi đây là một thứ giải thưởng của 'phe ta' khoác áo thụng vái nhau thôi. Nếu thật sự giải Nobel Hòa Bình dựa trên những tiêu chuẩn tiên khởi của chính ông Nobel đưa ra, thì trên thế giới hiện nay, không ai xứng đáng được giải hơn tổng thống Donald Trump của Mỹ.

    TT Trump nói nếu ông không được giải Nobel Hòa Bình thì đó sẽ là một sỉ nhục cho cả nước Mỹ. Xin lỗi, tôi thấy TT Trump nói sai hoàn toàn: nếu Trump không được giải Nobel thì đó chính là một sỉ nhục sâu đậm cho Ủy Ban Nobel, không ai khác. Hiển nhiên, giải Nobel đã biến thái thành một giải thưởng chính trị, thưởng cho những công tác cấp tiến, phục vụ cho những mục tiêu xã nghĩa không còn liên quan gì tới hòa bình thế giới gì nữa.

    Một giáo sư da đen của Đại Học Howard -đại học cho dân da đen tại Washington DC-, ông Clarence Lusane, sau khi nghe tin TT Trump không được giải Nobel Hòa Bình đã tung ra ngay một bài nhận định, giải thích tại sao ông Trump không thể được giải. Dĩ nhiên bài viết của ông này được đám vẹt tị nạn hấp tấp tìm Gú Gồ dịch ngay rồi phổ biến tứ tung, như Thánh Kinh mới. Ngay cả tay Võ Trọng Lung Tung cũng nhẩy bổ vào, góp ý "... những lý do Trump không thể nhận được giải Nobel Hòa Bình như tác giả đã vạch trần khó ai có thể phản luận". Tóm lại, những lý do GS Lusane nêu ra như sau (theo ChatGPT):

  1. Trump không tôn trọng nhân quyền, có chủ trương kỳ thị chủng tộc;
  2. ân xá cho cả ngàn người biểu tình đã lãnh án vì tội bao vây quốc hội ngày 6/1/2021, coi thường luật pháp;
  3. đối xử quá tệ với di dân, phản ảnh tính kỳ thị dân da nâu;
  4. đàn áp đối lập qua guồng máy chính quyền qua ICE, Vệ Binh Quốc Gia;
  5. ngưng các viện trợ nhân đạo cho các xứ khác;
  6. có thái độ đế quốc, đe dọa xâm chiếm Canada, Panama, Greenland;
  7. tấn công truyền thông, tìm cách lấn quyền của lập pháp, có khuynh hướng độc tài;
  8. là người nhỏ mọn, mang tâm địa trả thù, tàn ác;
  9. có đạt được vài ngưng bắn, nhưng còn quá sớm để biết những ngưng bắn này có thật là hòa bình trường cửu chưa;
  10. đồng lõa với Do Thái giết dân Palestine.
    "Khó có thể phản luận"??? Trước hết phải nói ngay, tất cả những 'tội' của Trump do tay giáo sư đen cuồng chống Trump nêu ra đều phần lớn là phịa, vô giá trị và đã bị phản bác bởi quá nhiều người quá nhiều lần rồi, kể cả Vũ Linh này trong Diễn Đàn Trái Chiều, không cần thiết phải lôi ra thảo luận lại trong khuôn khổ bài này.

    Ngoài ra, những tội ông Lusane nêu ra tuyệt đối không hề liên quan bất cứ xa gần gì tới  'tình hữu nghị và hòa bình thế giới' hết ráo. Còn về việc những cuộc ngưng bắn Trump giúp xẩy ra có thọ hay không thì xin hỏi ông GS những hòa ước mà Lê Đức Thọ và Yasser Arafat được tuyên dương và nhận giải ngay khi mực chưa khô có thọ không? Tại sao khi đó, Ủy Ban đã hấp tấp trao giải cho LĐThọ và Arafat mà không cần biết hòa ước có thọ hay không, hay có 'quá sớm' hay không?

    Xin quý độc giả đọc lại xem, bỏ qua những tội phịa, những cái 'tội' ông Lusane nêu ra có liên quan gì tới những tiêu chuẩn được giải của ông Nobel:

"... done the most or the best work for fraternity between nations, for the abolition or reduction of standing armies, and for the holding and promotion of peace congresses”.

    Không khác gì một cô học sinh được giải hoa hậu đẹp nhất trường vì...  ngoan ngoãn nghe lời cô giáo và học giỏi.

   Một con vẹt trích dẫn tuyên bố của lãnh đạo đảng Xã Hội thiên tả Na Uy sỉ vả "Donald Trump đang đưa nước Mỹ đi theo một hướng cực đoan, tấn công quyền tự do ngôn luận, sử dụng cảnh sát mật vụ để bắt cóc người dân giữa ban ngày và đàn áp các thể chế và tòa án. Khi tổng thống trở nên thất thường và độc đoán như vậy, tất nhiên chúng ta phải chuẩn bị cho mọi thứ". Vẫn y chang: có ai thấy ông Nobel viết gì về những 'tội' như 'thất thường', và 'độc đoán' không? (Quý độc giả lưu ý: bây giờ đám vẹt công khai trích dẫn các tuyên truyền của phe tả, mai một sẽ trích dẫn tuyên cáo của VC luôn cho tiện) 

    Sự thật về việc TT Trump không thể đoạt giải Nobel Hòa Bình năm nay đã được hãng thông tấn Reuters viết rất rõ: Ủy Ban Nobel khóa sổ không nhận đề cử cho năm 2025 vào ngày 31/1/2025, một chục ngày sau khi Trump mới tuyên thệ nhậm chức và chưa được ai đề cử hết, mà không đề cử thì Ủy Ban không cứu xét. Nếu có muốn cứu xét thì cũng phải chờ qua năm tới. Reuters là cơ quan truyền thông loa phường duy nhất đã đủ lương thiện để nói lên vấn đề thời gian tính này.

Bản tin của Reuters

    Bỏ qua chuyện Trump mà có thể có nhiều người rất ghét, rất oán, tố cáo cả vạn tội, thậm chí còn so sánh với tay đồ tể Hitler, nhìn vào lịch sử cận đại Mỹ không thôi, đã thấy có nhiều người rất xứng đáng được giải Nobel Hòa Bình mà không được giải. Như TT Reagan đã có công vĩ đại cho cả nhân loại khi không cần chiến tranh đẫm máu, không tốn một giọt máu nào của lính Mỹ hay lính Liên Xô, đã giải thể, xóa sổ một chế độ phi nhân, tàn ác nhất lịch sử nhân loại là chế độ cộng sản Liên Xô và đám lâu la đàn em trên khắp thế giới. Nhưng TT Reagan không được giải gì vì đã phạm một tội khổng lồ trong mắt Ủy Ban Nobel: tội bảo thủ, chống cấp tiến, hủy diệt tận gốc một thể chế 'nhân ái, đi tìm công bằng xã hội cho nhân loại'. 

    Trở lại câu chuyện giải Nobel năm nay, trong hệ thống emails của cộng đồng tị nạn, nhiều con vẹt đã phổ biến lại tin 'mật' từ một bà Mỹ - hay Tây Âu- gì đó, cho biết chi tiết về việc biểu quyết cho giải Nobel của Ủy Ban Nobel. Theo tin này, đã có nhiều cuộc bầu để lấy quyết định xem ai xứng đáng được giải. Phải qua nhiều vòng bầu. Vòng đầu, một bà nào đó, về nhất với 9% phiếu, Trump về hạng nhì với đâu 4,4% trong khi cô Machado về hạng ba với 4,3%, và cả chục người nữa được ít phiếu hơn. Cuối cùng, sau nhiều vòng đầu phiếu, nhiều người bị loại dần dần, Trump bị loại vì còn đâu khoảng 2% trong khi cô Machado vọt lên tới gần 66%.

    Xin thưa ngay với quý độc giả: đây là tin phếc-niu thô bạo nhất, và người phổ biến lại tin này là người ngớ ngẩn nhất, tuyệt đối không có tới một nửa ly hiểu biết gì thủ tục bầu giải Nobel Hòa Bình của Na Uy, hoàn toàn phịa vô căn cứ nhất:

  1. Ủy Ban có đúng 5 thành viên, mỗi người được một phiếu, do đó kết quả biểu quyết chỉ có thể là 0 hay 1 hay 2 hay 3 hay 4 hay 5 phiếu, không thể nào có mấy % gì ráo. Chẳng thể nào có chuyện Trump được 4,4%, hơn bà Machado 4.3%. Mà 4,4% của cái gì chứ? Có 5 người bầu thì làm sao có 4,4% hay 4,3%???
  2. Các biểu quyết của Ủy Ban Nobel là tuyệt mật, luôn luôn bỏ phiếu kín, không được công bố trong vòng 50 năm, theo luật Na Uy, không ai được biết ai bầu cho ai; trong phòng bầu, không có bất cứ một ai khác ngoài 5 người của Ủy Ban Nobel; trên thực tế, chẳng ai biết tên của TT Trump có trong danh sách những người được thảo luận và bầu hay không. Kẻ này nghĩ thực tế, tên của Trump cũng không có trong danh sách những người được cứu xét vì Ủy Ban đã không nhận đề cử kể từ ngày 31/1/2025, chỉ 10 ngày sau khi Trump mới tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ nhì và khi đó chưa ai đề cử Trump hết, mà không có đề cử thì Ủy Ban không cứu xét.
    Việc một mụ Mỹ hay Tây Âu cuồng chống Trump tung tin vịt, rồi cả đám vẹt tị nạn nhẩy bổ vào hý hửng phổ biến lại thật là chuyện đáng buồn vì chỉ phản ảnh trình độ thấp kém của đám vẹt đồng hương tị nạn, dốt mà to mồm.

Nguồn: ChatGPT

      Thời buổi của internet này, thiên hạ tha hồ tung tin cuội lăng nhăng đủ kiểu lên mạng một cách vô trách nhiệm nếu không muốn nói vô giáo dục nhất, chỉ cốt phô trương quan điểm đầy thành kiến của chính mình.

    Sự thật của câu chuyện Trump không nhận được giải Nobel năm nay có thể được tóm gọn trong hai lý do:

  1. Thời gian tính, Trump được đề cử quá muộn sau ngày Ủy Ban khoá sổ, không nhận đề cử nữa, không có cách gì nhận được giải của năm nay, may ra thì có hy vọng cho năm 2026. 
  2. Cho dù được đề cử kịp thời, chẳng hạn cho năm 2026, Trump cũng rất rất ít hy vọng được giải vì có khuynh hướng bảo thủ, ngược với khuynh hướng cấp tiến thiên tả của 5 người lấy quyết định trao giải.

    Những 'nhận định' -hay chính xác hơn, những sỉ vả bôi bác lung tung của đám vẹt càng ngày càng lộ rõ ra 'chân tướng': chẳng có gì có thể gọi là nhận định nghiêm chỉnh của những người khác ý, mà chỉ là những chửi rủa lăng nhăng của một đám cuồng thù Trump, kể cả những người luôn luôn đóng tuồng 'đứng đắn, nghiêm chỉnh', có vẻ không phe đảng quá lố bịch, giả vờ trung dung 'ba phải' không thành kiến như các cụ Vũ Văn Lộc, Trần Văn Tích, Quản Mỹ Lan. Còn những tên du đãng đội mũ đối lập như Kàtum, Võ Trọng Lung Tung, Đỗ Dũng, Duyên Nguyên, Hạc-vơ, 3 Qon Q,... sỉ vả lăng nhăng, lại còn đe dọa cho VL 'ăn kẹo đồng' như tay Võ Trọng ăn nói lung tung, thì... miễn bàn thêm. Bất cứ chuyện gì, tin gì có một tí hơi hám bất lợi cho Trump là mau mắn chụp lấy, thêm mắm thêm muối bôi bác tới bến. Như kẻ này đã từng viết, Trump có giúp sáng chế ra thuốc trị ung thư cũng sẽ bị sỉ vả ngay là ngu đần và tàn ác, đã để cho cả vạn người bị ung thư giết chết trong những năm nắm quyền. Những loại bôi bác vô căn cứ hay dựa trên tin phịa, qua ngôn ngữ du côn hay bẩn thỉu, chỉ phản ảnh tư cách của chích các tác giả của những chửi rủa đó thôi, chẳng có bất cứ một hậu quả nào khác. Nằm ngửa phun nước miếng lên thì nước miếng đó sẽ rớt xuống đâu? Con vẹt nào không biết câu trả lời, cứ làm thử thì sẽ biết ngay. 

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

AI: Do Thái vs Hồi Giáo: Hòa Bình 2025 chỉ là "break time"

Phần I: Ma Trận Lịch Sử: Từ Nguồn Cội Chung Đến Xung Đột Bất Trị

Phần này thiết lập bối cảnh lịch sử sâu sắc, chứng minh cách các tuyên bố tôn giáo cổ đại và hàng thế kỷ tương tác đã bị biến đổi bởi các lực lượng của chủ nghĩa dân tộc hiện đại và chính trị đế quốc thành cuộc xung đột mà chúng ta thấy ngày nay.

1. Nền Tảng Đức Tin và Đất Đai: Một Di Sản Chung Bị Tranh Chấp

1.1 Nguồn Gốc từ Abraham

Nguồn gốc của cuộc xung đột giữa người Do Thái và người Hồi giáo là một nghịch lý sâu sắc: nó bắt nguồn từ một di sản chung. Cả Do Thái giáo và Hồi giáo đều là các tôn giáo thuộc dòng Abraham, chia sẻ một nền tảng thần học độc thần và một phả hệ các nhà tiên tri. Do Thái giáo, một trong những tôn giáo độc thần cổ xưa nhất thế giới, có lịch sử hơn 3000 năm, bắt nguồn từ giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham.1 Theo truyền thống Do Thái, Abraham được kêu gọi rời bỏ quê hương ở Ur đến vùng đất Canaan, nơi Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông và con cháu ông.

Hàng thiên niên kỷ sau, vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, Hồi giáo xuất hiện trên bán đảo Ả Rập với sự mặc khải được truyền cho Nhà tiên tri Muhammad.4 Hồi giáo không coi mình là một tôn giáo mới, mà là sự phục hồi và hoàn thiện cuối cùng của đức tin độc thần nguyên thủy của Abraham. Kinh Qur'an công nhận các nhà tiên tri của Do Thái giáo, bao gồm Abraham (Ibrahim), Moses (Musa), David (Dawud), và Jesus (Isa), là những sứ giả đích thực của Thiên Chúa.6 Cả hai tôn giáo đều tôn thờ cùng một Thiên Chúa duy nhất; từ "Allah" trong tiếng Ả Rập chỉ đơn giản có nghĩa là "Thiên Chúa" và được cả các Kitô hữu nói tiếng Ả Rập sử dụng.6 Nền tảng chung này tạo ra một mối liên kết thần học không thể phủ nhận, nhưng cũng gieo mầm cho sự cạnh tranh về quyền kế thừa và tính chính thống.

1.2 Vùng Đất như một Giao Ước và Sự Chinh Phục

Vị trí trung tâm của vùng đất—được biết đến với nhiều tên gọi như Canaan, Israel, Palestine—là cốt lõi của cả hai câu chuyện dân tộc, nhưng với những ý nghĩa khác nhau. Đối với Do Thái giáo, mối liên hệ với vùng đất này mang tính giao ước và tồn tại. Đó là "Miền Đất Hứa" ($Eretz \ Yisrael$), một phần không thể thiếu trong giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái.2 Lịch sử của người Do Thái, từ các Tổ phụ, cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập do Moses dẫn đầu, đến các vương quốc của David và Solomon, đều diễn ra trên vùng đất này. Mặc dù đã trải qua nhiều cuộc lưu đày—bởi người Babylon vào năm 586 TCN và người La Mã vào năm 70 CN—mối liên kết tâm linh và khao khát trở về Zion (Jerusalem) vẫn là một chủ đề trung tâm trong đức tin và bản sắc Do Thái trong suốt nhiều thế kỷ.3

Đối với Hồi giáo, tầm quan trọng của vùng đất này đến từ sự chinh phục và thánh hóa. Sau cuộc chinh phục của người Hồi giáo vào thế kỷ thứ 7, vùng đất này trở thành một phần của Dar al-Islam (Vùng đất của Hồi giáo).7 Sự hiện diện của nó trong Kinh Qur'an, chủ yếu thông qua các câu chuyện về các nhà tiên tri trước Muhammad, đã củng cố vị thế thiêng liêng của nó trong thế giới Hồi giáo.6 Do đó, các tuyên bố thần học về vùng đất này có bản chất bất đối xứng. Tuyên bố của người Do Thái là về nguồn gốc và bản sắc thiết yếu—vùng đất là một phần không thể thiếu của chính giao ước. Tuyên bố của người Hồi giáo là về sự kế thừa và thánh hóa—vùng đất trở nên thiêng liêng thông qua cuộc chinh phục và một sự kiện quan trọng trong cuộc đời của nhà tiên tri cuối cùng của họ. Sự bất đối xứng này làm cho việc thỏa hiệp trở nên cực kỳ khó khăn, vì một bên coi đó là từ bỏ bản chất cốt lõi của mình, trong khi bên kia coi đó là từ bỏ một phần đã được thánh hóa trong lãnh địa phổ quát của mình.

1.3 Jerusalem: Tâm Điểm Thiêng Liêng

Không nơi nào sự chồng chéo và cạnh tranh này lại rõ rệt hơn ở Jerusalem. Thành phố này là tâm điểm của ba tôn giáo Abraham, nhưng đối với người Do Thái và người Hồi giáo, các địa điểm thiêng liêng của họ lại nằm chồng lên nhau một cách nguy hiểm.

Đối với người Do Thái, Jerusalem là Ir Ha-Kodesh (Thành phố Thánh), thủ đô không thể chia cắt của Vua David, và quan trọng nhất là địa điểm của Đền Thờ Thứ Nhất và Thứ Hai, được xây dựng trên Núi Đền (Har haBayit).8 Núi Đền được coi là nơi linh thiêng nhất trong Do Thái giáo, nơi Thiên Chúa hiện diện (Shekhinah) và là nơi người Do Thái hướng về khi cầu nguyện. Bức tường phía Tây (Bức tường Than khóc), một bức tường còn sót lại của khu phức hợp Đền Thờ Thứ Hai, là địa điểm hành hương và cầu nguyện quan trọng nhất của người Do Thái ngày nay.9

Đối với người Hồi giáo, Jerusalem (được gọi là Al-Quds, "Nơi Thánh") là địa điểm linh thiêng thứ ba sau Mecca và Medina.8 Tầm quan trọng của nó bắt nguồn từ Isra' and Mi'raj, Hành trình Đêm kỳ diệu của Nhà tiên tri Muhammad từ Mecca đến Jerusalem và sau đó lên thiên đàng.11 Khuôn viên trên đỉnh Núi Đền, được người Hồi giáo gọi là Haram al-Sharif (Khuôn viên Cao quý), là nơi có hai công trình Hồi giáo quan trọng: Mái vòm Đá (Qubbat as-Sakhra), được xây dựng trên tảng đá mà từ đó Muhammad được cho là đã lên thiên đàng, và Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa, nơi ông đã cầu nguyện.10

Do đó, cùng một mảnh đất—Núi Đền/Haram al-Sharif—lại là nơi linh thiêng nhất của Do Thái giáo và là địa điểm linh thiêng thứ ba của Hồi giáo. Cuộc xung đột không chỉ là về thần học mà còn là về chủ quyền đối với không gian vật lý, nơi mà sự thiêng liêng được sử dụng như một quân bài chính trị tối thượng.

2. Một Thiên Niên Kỷ Cùng Tồn Tại và Phục Tùng (khoảng 637 CN - 1917 CN)

2.1 Hiệp ước Umar và Hệ thống Dhimmi

Mối quan hệ giữa người Do Thái và người Hồi giáo trong phần lớn lịch sử không phải là một cuộc xung đột liên tục. Sau cuộc chinh phục Jerusalem của người Hồi giáo vào năm 637 CN, Caliph Umar ibn al-Khattab đã thiết lập một khuôn khổ cho sự cai trị. Theo Hiệp ước Umar, người Kitô hữu (và sau đó là người Do Thái) được đảm bảo an toàn cho tính mạng, tài sản và tự do thờ phượng.7 Đáng chú ý, Umar đã cho phép người Do Thái quay trở lại Jerusalem và thờ cúng tại đó, chấm dứt nhiều thế kỷ bị Đế chế La Mã và Byzantine cấm đoán.7

Sự sắp xếp này đã chính thức hóa quy chế của người Do Thái và Kitô hữu là Ahl al-Kitab (Người của Kinh sách). Họ được cấp quy chế dhimmi, hay "những người được bảo vệ". Đổi lại việc trả một khoản thuế đặc biệt gọi là jizya và chấp nhận một số hạn chế xã hội nhất định biểu thị địa vị thấp hơn, các cộng đồng dhimmi được phép duy trì luật pháp, các thể chế và thực hành tôn giáo của riêng họ.7 Hệ thống này, mặc dù không phải là một hệ thống bình đẳng theo tiêu chuẩn hiện đại, đã cung cấp một mức độ ổn định và khoan dung lớn hơn nhiều so với những gì các cộng đồng Do Thái thường phải đối mặt ở châu Âu thời trung cổ.

2.2 "Thời Kỳ Hoàng Kim" và Những Sắc Thái Của Nó

Trong một số thời kỳ và khu vực nhất định của thế giới Hồi giáo, đặc biệt là ở Al-Andalus (Tây Ban Nha Hồi giáo) từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, các cộng đồng Do Thái đã trải qua một "Thời kỳ hoàng kim" về văn hóa, kinh tế và trí tuệ.7 Các học giả, nhà thơ và triết gia Do Thái như Maimonides đã phát triển mạnh mẽ, viết bằng cả tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái, và đóng góp đáng kể vào đời sống trí tuệ của thời đại. Người Do Thái giữ các vị trí quan trọng trong triều đình, thương mại và y học. Tương tự, ở các trung tâm Hồi giáo khác như Baghdad và Cairo, các cộng đồng Do Thái cũng có những giai đoạn thịnh vượng.

Tuy nhiên, câu chuyện về 1400 năm chung sống hòa bình là một sự đơn giản hóa mang tính chính trị. Mối quan hệ này về cơ bản là một mối quan hệ có thứ bậc, không phải bình đẳng. Tình trạng của các cộng đồng dhimmi phụ thuộc vào ý muốn của người cai trị và có thể thay đổi đột ngột. Đã có những giai đoạn bị đàn áp dữ dội, chẳng hạn như dưới triều đại Almohad cuồng tín ở Bắc Phi và Tây Ban Nha vào thế kỷ 12, khi người Do Thái phải đối mặt với lựa chọn cải đạo, lưu đày hoặc chết.7 Lịch sử của sự phục tùng này, ngay cả khi "lành tính", đã tạo ra một bối cảnh tâm lý sâu sắc, sau này đã định hình cả khát vọng tự quyết của người Do Thái (để thoát khỏi thân phận thiểu số vĩnh viễn) và kỳ vọng của người Ả Rập về sự thống trị tiếp diễn. Sự đảo ngược đột ngột của các động lực quyền lực trong thế kỷ 20 do đó trở nên đặc biệt gây sốc và khó chấp nhận đối với phía Ả Rập.

2.3 Kỷ Nguyên Ottoman và Mầm Mống Thay Đổi

Đế chế Ottoman, cai trị Palestine từ năm 1517 đến 1917, phần lớn tiếp tục hệ thống millet, một biến thể của hệ thống dhimmi cho phép các cộng đồng tôn giáo thiểu số có quyền tự trị đáng kể trong các vấn đề dân sự của họ.14 Trong phần lớn thời kỳ này, Palestine là một vùng đất tương đối yên tĩnh, dân cư chủ yếu là người Ả Rập Hồi giáo và Kitô giáo, với một cộng đồng Do Thái nhỏ nhưng lâu đời tập trung ở các thành phố thánh Jerusalem, Hebron, Safed và Tiberias.

Vào cuối thế kỷ 19, sự kết hợp của nhiều yếu tố đã bắt đầu làm thay đổi hiện trạng. Sự suy yếu của Đế chế Ottoman, được gọi là "con bệnh của châu Âu", đã tạo ra một khoảng trống quyền lực ở Trung Đông. Đồng thời, sự trỗi dậy của các ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa ở châu Âu bắt đầu lan rộng. Điều này đã truyền cảm hứng cho cả sự khởi đầu của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, tìm kiếm sự độc lập khỏi ách thống trị của Ottoman, và sự ra đời của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái chính trị, tìm kiếm một giải pháp cho chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu. Vùng đất Palestine, từng là một tỉnh lỵ xa xôi, sắp trở thành sân khấu cho cuộc đối đầu của hai phong trào dân tộc non trẻ này.

3. Lò Luyện của Thời Hiện Đại: Sự Trỗi Dậy của Hai Chủ Nghĩa Dân Tộc (khoảng 1880 - 1947)

3.1 Phong Trào Phục Quốc Do Thái: Một Phản Ứng Trước Sự Đàn Áp ở Châu Âu

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism) chính trị hiện đại không phải là một phong trào tôn giáo mà là một phong trào dân tộc thế tục, ra đời từ những lò lửa của châu Âu thế kỷ 19. Được chính thức hóa bởi nhà báo người Áo-Hung Theodor Herzl tại Đại hội Phục quốc Do Thái lần thứ nhất vào năm 1897, mục tiêu của nó là giải quyết "vấn đề Do Thái"—tình trạng bị đàn áp, phân biệt đối xử và không có quyền công dân của người Do Thái ở châu Âu—bằng cách thành lập một nhà nước Do Thái được công nhận hợp pháp.15 Động lực chính là làn sóng bài Do Thái ngày càng gia tăng, đặc biệt là các cuộc tàn sát (pogroms) tàn bạo ở Đế quốc Nga, đã thuyết phục nhiều người Do Thái rằng việc đồng hóa là không thể và chỉ có chủ quyền quốc gia mới có thể đảm bảo sự an toàn cho họ.14 Mặc dù các địa điểm khác đã được xem xét, mối liên kết lịch sử và tôn giáo sâu sắc với "Zion" đã khiến Palestine trở thành trọng tâm không thể tranh cãi của phong trào.

3.2 Chủ Nghĩa Dân Tộc Palestine: Một Phản Ứng Trước Mối Đe Dọa Nhận Thấy

Trong khi chủ nghĩa Phục quốc Do Thái là một phản ứng đối với các điều kiện ở châu Âu, thì chủ nghĩa dân tộc Palestine-Ả Rập lại nổi lên chủ yếu như một phản ứng đối với các sự kiện diễn ra tại chính Palestine. Nó là một phản ứng kép: chống lại sự cai trị đang suy yếu của Ottoman và sự can thiệp ngày càng tăng của các cường quốc châu Âu, và đặc biệt hơn, chống lại mối đe dọa nhận thấy từ dự án Phục quốc Do Thái. Làn sóng nhập cư của người Do Thái (Aliyot), việc mua đất có hệ thống bởi các tổ chức Do Thái, và việc thành lập các khu định cư độc quyền của người Do Thái đã gây ra sự lo lắng ngày càng tăng trong dân chúng Ả Rập bản địa.17 Các nhà lãnh đạo như Đại Mufti của Jerusalem, Haj Amin al-Husseini, đã tập hợp sự phản kháng bằng cách kết hợp các luận điệu dân tộc chủ nghĩa với các lời kêu gọi tôn giáo, mô tả chủ nghĩa Phục quốc Do Thái như một dự án thực dân châu Âu nhằm chiếm đoạt đất đai và thay thế dân chúng Ả Rập.19 Cuộc nổi dậy của người Ả Rập năm 1936-1939 là biểu hiện bạo lực đầu tiên trên quy mô lớn của phong trào dân tộc này.21

3.3 Chế Độ Ủy Trị của Anh: Một Lời Hứa cho Hai Dân Tộc

Sự sụp đổ của Đế chế Ottoman trong Thế chiến I đã đưa Palestine dưới sự kiểm soát của Anh. Chính phủ Anh, trong một nỗ lực cân bằng các lợi ích chiến lược phức tạp, đã đưa ra những lời hứa mâu thuẫn. Thông qua Công văn McMahon-Hussein, họ dường như đã hứa hẹn độc lập cho người Ả Rập để đổi lấy sự nổi dậy chống lại người Ottoman. Tuy nhiên, Tuyên ngôn Balfour năm 1917, một văn kiện chỉ dài 67 từ, đã cam kết sự ủng hộ của Anh cho việc "thành lập một quê hương quốc gia cho người Do Thái ở Palestine".22 Tuyên ngôn này có một điều khoản quan trọng nhưng mơ hồ, quy định rằng "sẽ không có hành động nào được thực hiện có thể gây phương hại đến các quyền dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái hiện có ở Palestine"—một sự thừa nhận ngầm về sự tồn tại của đa số Ả Rập nhưng lại không đề cập đến các quyền chính trị của họ.24

Dưới Chế độ Ủy trị của Hội Quốc Liên do Anh quản lý (1920-1948), những lời hứa mâu thuẫn này đã trở thành chính sách chính thức.25 Chính quyền Anh đã tạo điều kiện cho việc nhập cư của người Do Thái và cho phép cộng đồng Do Thái (Yishuv) xây dựng các thể chế tự trị giống như một nhà nước—quân đội (Haganah), hệ thống giáo dục, và các tổ chức chính trị. Đồng thời, họ phải đối mặt với sự phản kháng ngày càng quyết liệt của người Ả Rập, dẫn đến các cuộc bạo loạn vào các năm 1921, 1929, và cuộc nổi dậy toàn diện năm 1936-1939.26 Chính sách của Anh đã dao động một cách vô ích giữa việc ủng hộ các cam kết Phục quốc Do Thái và cố gắng xoa dịu người Ả Rập, mà đỉnh điểm là Sách Trắng năm 1939 hạn chế nghiêm ngặt việc nhập cư của người Do Thái ngay trước thềm Holocaust. Sự thất bại của Anh trong việc hòa giải hai phong trào dân tộc này đã trực tiếp dẫn đến việc họ từ bỏ Chế độ Ủy trị và chuyển vấn đề cho Liên Hợp Quốc vào năm 1947.

Sự thay đổi nhân khẩu học nhanh chóng trong thời kỳ này là yếu tố trung tâm gây ra lo ngại của người Ả Rập và là thước đo thành công của dự án Phục quốc Do Thái. Nó biến một khái niệm trừu tượng về "nhập cư" thành một thực tế thống kê, cho thấy sự thay đổi cán cân nhân khẩu học đã khiến cuộc xung đột trở thành một cuộc đấu tranh sinh tồn, có tổng bằng không đối với đa số Ả Rập.

Năm

Tổng Dân Số

Dân Số Do Thái

% Do Thái

Dân Số Ả Rập và Khác

% Ả Rập và Khác

1922

752,048

83,790

11.1%

668,258

88.9%

1931

1,036,339

175,138

16.9%

861,201

83.1%

1945

1,764,520

553,600

31.4%

1,210,920

68.6%

1947 (Ước tính)

1,845,000

608,000

33.0%

1,237,000

67.0%

Nguồn: Dữ liệu dựa trên các cuộc điều tra dân số của Anh và báo cáo của UNSCOP năm 1947.27

4. Vòng Xoáy Chiến Tranh và Hòa Bình Dở Dang (1948 - Hiện Tại)

4.1 Chiến Tranh 1947-1948: Quốc Gia và Thảm Họa (Nakba)

Không thể tìm ra một giải pháp, Anh đã trao vấn đề Palestine cho Liên Hợp Quốc. Vào ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị quyết 181, còn được gọi là Kế hoạch Phân chia.18 Kế hoạch này đề xuất chia Lãnh thổ Ủy trị Palestine thành một nhà nước Do Thái độc lập và một nhà nước Ả Rập độc lập, với Jerusalem được đặt dưới một chế độ quốc tế đặc biệt.27 Cơ quan Do Thái, đại diện cho cộng đồng Do Thái, đã chấp nhận kế hoạch này một cách miễn cưỡng như một sự thỏa hiệp thực dụng. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Ả Rập và Palestine đã nhất loạt từ chối, cho rằng kế hoạch này đã phân bổ một phần lãnh thổ không tương xứng (khoảng 56%) cho người Do Thái, những người chỉ chiếm khoảng một phần ba dân số và sở hữu chưa đến 7% đất đai.18

Việc LHQ thông qua kế hoạch đã ngay lập tức châm ngòi cho một cuộc nội chiến. Khi người Anh cuối cùng rút quân và Israel tuyên bố độc lập vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, các đội quân từ các quốc gia Ả Rập láng giềng đã can thiệp, biến cuộc nội chiến thành một cuộc chiến tranh liên quốc gia.28 Kết quả của cuộc chiến năm 1948 là một chiến thắng quyết định của Israel. Nhà nước mới thành lập không chỉ bảo vệ được sự tồn tại của mình mà còn chiếm được lãnh thổ lớn hơn so với Kế hoạch Phân chia của LHQ. Đối với người Palestine, cuộc chiến là một thảm họa—al-Nakba. Khoảng 750.000 người Palestine đã phải chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi nhà cửa của họ ở vùng đất đã trở thành Israel, tạo ra một cuộc khủng hoảng người tị nạn vẫn còn là trọng tâm của cuộc xung đột cho đến ngày nay.28 Nhà nước Ả Rập Palestine được dự tính trong kế hoạch của LHQ đã không bao giờ ra đời; thay vào đó, Bờ Tây bị Jordan sáp nhập và Dải Gaza nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập.

4.2 Một Chu Kỳ Chiến Tranh Liên Quốc Gia (1956, 1967, 1973)

Những thập kỷ sau đó được đánh dấu bằng một chu kỳ chiến tranh giữa Israel và các quốc gia Ả Rập láng giềng.28 Cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 và Chiến tranh Yom Kippur năm 1973 đều là những chương đẫm máu trong cuộc xung đột rộng lớn hơn này. Trong số này, Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 là một bước ngoặt địa chính trị. Trong một cuộc tấn công phủ đầu chớp nhoáng chống lại Ai Cập, Syria và Jordan, Israel đã giành được quyền kiểm soát Bán đảo Sinai và Dải Gaza từ Ai Cập, Bờ Tây (bao gồm cả Đông Jerusalem) từ Jordan, và Cao nguyên Golan từ Syria.28

Chiến thắng này đã làm thay đổi cơ bản bản chất của cuộc xung đột. Trước năm 1967, vấn đề cốt lõi là "câu hỏi về sự tồn tại của Israel". Sau năm 1967, nó trở thành "câu hỏi về sự chiếm đóng". Israel giờ đây cai trị trực tiếp hàng triệu người Palestine ở Bờ Tây và Gaza. Cuộc xung đột đã chuyển từ một cuộc đối đầu chủ yếu giữa các quốc gia thành một cuộc xung đột bất đối xứng giữa một nhà nước chiếm đóng và một dân tộc bị chiếm đóng không có nhà nước. Sự thay đổi này đã đặt nền móng cho tất cả các động lực chính trị và quân sự trong nửa thế kỷ tiếp theo.

4.3 Sự Chiếm Đóng và Sự Trỗi Dậy của PLO

Sau cuộc chiến năm 1967, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua Nghị quyết 242, văn kiện đã trở thành nền tảng cho mọi nỗ lực hòa bình sau này.34 Nghị quyết này đã thiết lập nguyên tắc "đổi đất lấy hòa bình", kêu gọi "rút quân đội Israel khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng trong cuộc xung đột gần đây" để đổi lấy việc chấm dứt tình trạng chiến tranh và sự công nhận các đường biên giới an toàn và được công nhận cho tất cả các quốc gia trong khu vực.35 Tuy nhiên, sự mơ hồ trong ngôn ngữ của văn bản tiếng Anh—việc thiếu mạo từ xác định "the" trước "territories"—đã dẫn đến những cách diễn giải trái ngược nhau. Các quốc gia Ả Rập và Palestine khăng khăng rằng nó có nghĩa là rút quân khỏi tất cả các vùng lãnh thổ, trong khi Israel lập luận rằng nó chỉ yêu cầu rút quân khỏi một số vùng lãnh thổ như một phần của một thỏa thuận hòa bình được đàm phán.

Trong bối cảnh chiếm đóng này, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO), được thành lập vào năm 1964, đã nổi lên dưới sự lãnh đạo của Yasser Arafat như là hiện thân của chủ nghĩa dân tộc Palestine. Ban đầu, PLO theo đuổi mục tiêu giải phóng toàn bộ Palestine thông qua đấu tranh vũ trang, thực hiện các cuộc tấn công chống lại Israel từ các căn cứ ở Jordan và sau đó là Lebanon.

4.4 Tiến Trình Hòa Bình Mong Manh và Sự Sụp Đổ của Nó

Những nỗ lực ngoại giao để giải quyết cuộc xung đột đã có những thành công và thất bại đáng kể. Hiệp định Trại David năm 1978, do Tổng thống Mỹ Jimmy Carter làm trung gian, đã dẫn đến một hiệp ước hòa bình lịch sử giữa Israel và Ai Cập, trong đó Israel trả lại Bán đảo Sinai.36 Tuy nhiên, nó đã không giải quyết được vấn đề cốt lõi của người Palestine và bị phần lớn thế giới Ả Rập lên án là một sự phản bội.

Một sự thay đổi địa chấn đã xảy ra với cuộc nổi dậy của người Palestine lần thứ nhất, hay Intifada, bắt đầu vào năm 1987.28 Cuộc nổi dậy quần chúng này, đặc trưng bởi các cuộc biểu tình, đình công và ném đá, đã cho thấy cái giá phải trả về mặt con người và đạo đức của việc chiếm đóng và tạo ra một động lực mới cho các cuộc đàm phán. Điều này cuối cùng đã dẫn đến Hiệp định Oslo bí mật được đàm phán, được ký kết tại Washington D.C. vào năm 1993.37 Hiệp định Oslo đã thiết lập sự công nhận lẫn nhau giữa Israel và PLO, và tạo ra Chính quyền Palestine (PA) với quyền tự trị hạn chế ở các khu vực của Bờ Tây và Dải Gaza.40 Nó được dự định là một thỏa thuận tạm thời kéo dài 5 năm, trong đó các "vấn đề quy chế cuối cùng"—biên giới, Jerusalem, người tị nạn và các khu định cư của Israel—sẽ được giải quyết.40

Tuy nhiên, tiến trình Oslo đã sụp đổ. Nó đã bị phá hoại bởi những kẻ phá bĩnh từ cả hai phía: các vụ đánh bom liều chết của các nhóm chiến binh Hồi giáo Palestine như Hamas, và việc Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin, người ký kết hiệp định, bị một kẻ cực đoan cánh hữu Do Thái ám sát.38 Quan trọng hơn, cả hai bên đều không thể xây dựng được lòng tin cần thiết. Israel tiếp tục mở rộng các khu định cư ở Bờ Tây, điều mà người Palestine coi là một hành động thể hiện sự thiếu thiện chí và một nỗ lực nhằm tạo ra "sự đã rồi" trên thực địa.42 Sự thất bại của Hội nghị thượng đỉnh Trại David năm 2000 trong việc đạt được một thỏa thuận cuối cùng đã dẫn đến sự bùng nổ của Intifada lần thứ hai, một cuộc xung đột bạo lực hơn nhiều, đã phá hủy những gì còn lại của tiến trình hòa bình.28 Vai trò của Hoa Kỳ, với tư cách là nhà trung gian chính, thường bị chỉ trích là thiên vị Israel do mối quan hệ đồng minh chiến lược và viện trợ quân sự, tài chính khổng lồ của Mỹ dành cho Israel.43

Phần II: Phân Tích Xung Đột Theo Lý Thuyết Trò Chơi

Phần này áp dụng một lăng kính phân tích chính thức để giải thích logic chiến lược duy trì cuộc xung đột, vượt ra ngoài tường thuật lịch sử để mô hình hóa các lựa chọn và động cơ của các bên tham gia chính.

5. Mô Hình Hóa Xung Đột: Người Chơi, Lợi Ích và Chiến Lược

Lý thuyết trò chơi cung cấp một khuôn khổ để phân tích các tương tác chiến lược giữa các tác nhân lý trí. Bằng cách xác định người chơi, mục tiêu (lợi ích) và các hành động có thể (chiến lược), chúng ta có thể làm sáng tỏ tại sao cuộc xung đột lại rơi vào các mô hình tự hủy hoại lặp đi lặp lại.

5.1 Xác Định Các Người Chơi Chính

Cuộc xung đột không phải là một trò chơi hai người đơn giản. Nó liên quan đến nhiều tác nhân với các mục tiêu khác nhau, hoạt động ở các cấp độ khác nhau:

      Các Tác Nhân Nhà Nước:

      Israel: Một tác nhân thống nhất với mục tiêu chính là đảm bảo an ninh lâu dài và duy trì bản sắc vừa là nhà nước Do Thái vừa là nhà nước dân chủ.

      Hoa Kỳ: Một tác nhân bên ngoài có ảnh hưởng lớn, đóng vai trò kép vừa là người bảo trợ chính cho an ninh của Israel, vừa là nhà trung gian hòa giải chính.43

      Các Quốc Gia Ả Rập Khu Vực: Bao gồm các tác nhân như Ai Cập và Jordan (có hiệp ước hòa bình với Israel), Ả Rập Xê Út (một cường quốc khu vực đang tìm cách bình thường hóa quan hệ), và Iran (một đối thủ khu vực hỗ trợ các nhóm chống Israel). Lợi ích của họ rất đa dạng và không phải lúc nào cũng phù hợp với lợi ích của người Palestine.

      Các Phe Phái Palestine (như những người chơi riêng biệt):

      Chính quyền Palestine (PA)/Fatah: Được quốc tế công nhận là đại diện của người Palestine, theo đuổi giải pháp hai nhà nước thông qua các kênh ngoại giao và hợp tác an ninh với Israel.45

      Hamas và các phe phái vũ trang khác: Kiểm soát Dải Gaza, từ chối công nhận Israel và theo đuổi các mục tiêu của mình thông qua đấu tranh vũ trang, coi các cuộc đàm phán là vô ích.45

5.2 Xác Định Cấu Trúc Lợi Ích (Mục Tiêu & Ưu Tiên)

Mỗi người chơi có một thứ tự ưu tiên các kết quả, hay "lợi ích", định hướng cho các quyết định chiến lược của họ:

      Israel:

1.     An ninh Tối đa: Loại bỏ các mối đe dọa hiện hữu và giảm thiểu bạo lực.

2.     Duy trì Bản sắc Do Thái và Dân chủ: Tránh một kịch bản một nhà nước nơi người Do Thái trở thành thiểu số.

3.     Kiểm soát các Điểm Chiến lược: Duy trì chủ quyền đối với một Jerusalem thống nhất và các khối định cư lớn ở Bờ Tây.

4.     Bình thường hóa Khu vực: Đạt được sự chấp nhận và quan hệ kinh tế với thế giới Ả Rập.

      PA/Fatah:

1.     Nhà nước có Chủ quyền: Thành lập một nhà nước Palestine độc lập trên các đường biên giới năm 1967 với Đông Jerusalem là thủ đô.

2.     Giải pháp cho Người tị nạn: Một giải pháp "công bằng và được đồng thuận" cho vấn đề người tị nạn Palestine.

3.     An ninh và Phát triển: Chấm dứt chiếm đóng và xây dựng một nền kinh tế và xã hội ổn định.

      Hamas:

1.     Giải phóng Toàn bộ Palestine: Mục tiêu tối đa là thành lập một nhà nước Hồi giáo trên toàn bộ lãnh thổ Palestine lịch sử.

2.     Chấm dứt Chiếm đóng và Phong tỏa: Mục tiêu tối thiểu là chấm dứt sự chiếm đóng của Israel và dỡ bỏ phong tỏa Dải Gaza.

3.     Giành Quyền Lãnh đạo: Thay thế Fatah trở thành người lãnh đạo không thể tranh cãi của phong trào dân tộc Palestine.

5.3 Sơ Đồ Hóa Các Lựa Chọn Chiến Lược

Tại bất kỳ thời điểm nào, các người chơi chính (đặc biệt là Israel và các phe phái Palestine) phải đối mặt với một lựa chọn cơ bản giữa hai chiến lược rộng lớn:

      Hợp tác (Cooperate): Tham gia vào các cuộc đàm phán thiện chí, công nhận quyền tồn tại của bên kia, thực hiện các thỏa thuận đã ký, kiềm chế bạo lực, và (đối với Israel) đóng băng việc mở rộng khu định cư.

      Phản bội (Defect): Sử dụng các biện pháp quân sự, thực hiện các hành động khủng bố, mở rộng các khu định cư, từ chối các cuộc đàm phán, hoặc theo đuổi các hành động đơn phương tại các diễn đàn quốc tế.

Tình thế tiến thoái lưỡng nan này có thể được mô hình hóa bằng một ma trận lợi ích, thường được gọi là "Thế lưỡng nan của Tù nhân". Trong bối cảnh này, chúng ta có thể gọi nó là "Thế lưỡng nan Oslo", minh họa cho logic chiến lược đã dẫn đến sự sụp đổ của tiến trình hòa bình.

 

Palestine (PLO) Hợp tác (Tôn trọng an ninh, đàm phán)

Palestine (PLO) Phản bội (Cho phép bạo lực, từ bỏ đàm phán)

Israel Hợp tác (Đóng băng khu định cư, trao quyền)

Hòa bình Tương đối (3, 3) Cả hai đều đạt được sự ổn định và tiến tới một giải pháp. Kết quả tốt thứ hai cho mỗi bên.

Israel bị lợi dụng (-1, 4) Israel nhượng bộ nhưng phải đối mặt với bạo lực. Kết quả tồi tệ nhất cho Israel, tốt nhất cho các phe phái cứng rắn của Palestine.

Israel Phản bội (Mở rộng khu định cư, hành động quân sự)

Palestine bị lợi dụng (4, -1) Palestine duy trì an ninh nhưng phải đối mặt với việc mất đất. Kết quả tốt nhất cho các phe phái cứng rắn của Israel, tồi tệ nhất cho Palestine.

Xung đột Vĩnh viễn (1, 1) Cả hai đều phải chịu chi phí an ninh và kinh tế. Kết quả tồi tệ thứ hai cho mỗi bên, nhưng an toàn hơn là bị lợi dụng.

Lưu ý: Các con số là các giá trị lợi ích được xếp hạng (4=tốt nhất, 1=tồi tệ nhất).

Ma trận này cho thấy một cách trực quan logic cốt lõi của Thế lưỡng nan của Tù nhân trong bối cảnh này. Mặc dù hợp tác chung (Hòa bình Tương đối) tốt hơn cho cả hai so với phản bội chung (Xung đột Vĩnh viễn), mỗi bên lại có một động cơ cá nhân mạnh mẽ để phản bội. Mỗi bên đều sợ "lợi ích của kẻ ngốc"—kết quả của việc hợp tác trong khi bên kia phản bội (ví dụ, PLO ngăn chặn bạo lực trong khi Israel mở rộng các khu định cư, hoặc ngược lại). Sự thiếu tin tưởng sâu sắc khiến mỗi bên dự đoán rằng bên kia sẽ phản bội, do đó họ chọn phản bội trước như một chiến lược phòng thủ hợp lý. Điều này tạo ra một trạng thái cân bằng Nash không hiệu quả, trong đó cả hai bên đều chọn phản bội và kết thúc ở ô "Xung đột Vĩnh viễn", một kết quả tồi tệ hơn cho cả hai so với hợp tác chung.

6. Các Trò Chơi Lặp Lại và Cân Bằng Dịch Chuyển: Tại Sao Hòa Bình Thất Bại

6.1 Xung Đột như một Trò Chơi Lặp Lại Không Có Lòng Tin

Cuộc xung đột Israel-Palestine không phải là một trò chơi diễn ra một lần. Nó là một "trò chơi lặp lại"—một chuỗi các tương tác kéo dài qua nhiều thập kỷ. Về mặt lý thuyết, trong các trò chơi lặp lại, chiến lược "ăn miếng trả miếng" (tit-for-tat) có thể thúc đẩy sự hợp tác. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi một mức độ tin cậy cơ bản rằng các hành động hợp tác sẽ được đáp lại. Trong trường hợp này, ký ức lịch sử về sự phản bội—các cuộc tấn công khủng bố trong các cuộc đàm phán hòa bình, việc ám sát Yitzhak Rabin, việc tiếp tục mở rộng các khu định cư bất chấp các thỏa thuận—đã phá hủy lòng tin.38 Mỗi bên đều hoạt động dựa trên giả định rằng bên kia là không đáng tin cậy và sẽ lợi dụng bất kỳ sự nhượng bộ nào. Do đó, logic của trò chơi một lần (phản bội là hợp lý) tiếp tục chi phối, ngay cả trong một bối cảnh lặp lại.

6.2 Vai Trò của Những Kẻ Phá Bĩnh và Các Trò Chơi Đa Cấp

Mô hình đơn giản hóa trở nên phức tạp hơn bởi thực tế là cả "Israel" và "Palestine" đều không phải là những người chơi thống nhất. Mỗi bên đều có những "kẻ phá bĩnh"—các nhóm cực đoan có lợi ích trong việc tiếp tục xung đột. Đối với người Palestine, các nhóm như Hamas và Thánh chiến Hồi giáo có thể thực hiện các cuộc tấn công bạo lực để phá hoại các cuộc đàm phán do Fatah lãnh đạo, cho rằng ngoại giao là một sự phản bội. Đối với người Israel, các phần tử cực đoan trong phong trào định cư có thể thành lập các tiền đồn mới hoặc thực hiện bạo lực chống lại người Palestine để kích động một phản ứng và ngăn chặn bất kỳ việc rút quân nào của chính phủ.

Những kẻ phá bĩnh này biến cuộc xung đột thành một "trò chơi đa cấp". Các nhà lãnh đạo ôn hòa không chỉ chơi một trò chơi với đối thủ của họ, mà còn chơi một trò chơi khác với các phe phái cực đoan trong chính phe của mình. Một hành động hợp tác với đối thủ có thể bị các cử tri trong nước coi là một sự yếu đuối, khiến nhà lãnh đạo mất quyền lực vào tay những người cứng rắn hơn. Logic này thường buộc các nhà lãnh đạo ôn hòa phải áp dụng các lập trường cứng rắn hơn so với mong muốn của họ để bảo vệ sườn chính trị của mình, càng làm củng cố thêm vòng xoáy phản bội.

6.3 Các Trạng Thái Cân Bằng Dịch Chuyển

Trạng thái cân bằng của trò chơi không cố định. Các sự kiện lịch sử lớn đã thay đổi ma trận lợi ích và các chiến lược khả thi:

      Hiệp định Trại David (1978): Bằng cách loại bỏ Ai Cập, quốc gia Ả Rập đông dân và mạnh nhất về quân sự, khỏi phương trình xung đột, hiệp định này đã làm thay đổi cán cân quyền lực một cách quyết định theo hướng có lợi cho Israel, khiến một giải pháp quân sự áp đặt lên Israel bởi các quốc gia Ả Rập trở nên không thể.36

      Sự trỗi dậy của Iran: Cuộc cách mạng Iran năm 1979 và sự trỗi dậy sau đó của Iran với tư cách là một cường quốc khu vực chống lại Israel và Hoa Kỳ đã tạo ra một trục xung đột mới. Iran, thông qua việc bảo trợ cho các nhóm như Hezbollah và Hamas, đã cung cấp cho các phe phái Palestine một giải pháp thay thế cho việc đàm phán do Mỹ hậu thuẫn.

      Chính sách Khu định cư: Việc Israel liên tục mở rộng các khu định cư ở Bờ Tây không chỉ là một hành động "phản bội" trong trò chơi hiện tại; đó là một chiến lược dài hạn nhằm thay đổi chính "bàn cờ".42 Bằng cách tạo ra một thực tế nhân khẩu học và cơ sở hạ tầng trên thực địa, chính sách này nhằm mục đích làm cho giải pháp hai nhà nước trở nên không khả thi về mặt địa lý, do đó loại bỏ một trong những kết quả tiềm năng của trò chơi và buộc người Palestine phải chấp nhận một hình thức tự trị hạn chế hơn.46

      Các Hiệp định Abraham (2020): Các thỏa thuận bình thường hóa giữa Israel và một số quốc gia Ả Rập (UAE, Bahrain, Morocco) cho thấy một sự thay đổi chiến lược, trong đó các quốc gia này đang tách rời lợi ích quốc gia của họ khỏi vấn đề Palestine. Điều này làm suy yếu sự đoàn kết của khối Ả Rập, cô lập người Palestine hơn nữa về mặt ngoại giao và giảm bớt áp lực khu vực đối với Israel để đi đến một thỏa hiệp.

Phần III: Dự Báo Thiên Niên Kỷ Tới

Phần cuối cùng này chuyển từ phân tích sang tầm nhìn chiến lược, sử dụng các động lực lịch sử và cấu trúc lý thuyết trò chơi đã được xác định để phác thảo các tương lai dài hạn hợp lý. Đây không phải là một sự tiên đoán, mà là một cuộc khám phá có cấu trúc về các khả năng.

7. Các Động Lực Bền Vững và Những Thay Đổi Mô Hình Tiềm Năng

Để dự báo về tương lai sâu thẳm, cần phải phân biệt giữa các lực lượng có quán tính cao ("cấu trúc sâu") và các biến số có tác động lớn nhưng không chắc chắn ("nhân tố thay đổi cuộc chơi").

7.1 Các "Cấu Trúc Sâu" (Lực lượng có Quán tính cao)

Đây là những yếu tố cơ bản, thay đổi chậm, có khả năng sẽ tiếp tục định hình khu vực trong nhiều thế kỷ tới:

      Nhân khẩu học: Cuộc đua nhân khẩu học giữa người Do Thái và người Ả Rập giữa Sông Jordan và Biển Địa Trung Hải là một yếu tố cơ bản. Tỷ lệ sinh và di cư sẽ quyết định cán cân quyền lực và bản chất của bất kỳ thực thể chính trị nào trong tương lai. Một kịch bản một nhà nước sẽ đặt ra một thách thức hiện hữu đối với bản sắc của Israel vừa là Do Thái vừa là dân chủ.

      Địa lý và Tài nguyên: Sự khan hiếm cố hữu về đất đai và, quan trọng hơn, nước, là một yếu tố không đổi. Biến đổi khí hậu có khả năng làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm này, biến việc kiểm soát các tầng ngậm nước và Sông Jordan từ một vấn đề chiến lược thành một vấn đề sinh tồn.

      Thuyết Tận thế Tôn giáo: Các niềm tin về ngày tận thế trong cả Do Thái giáo chính thống và Hồi giáo chính thống đều gắn liền với Jerusalem và vùng đất này. Các lời tiên tri về việc xây dựng lại Đền Thờ Thứ Ba hoặc sự trở lại của Mahdi có thể, trong những thời điểm khủng hoảng, thúc đẩy các phong trào cực đoan và chống lại các giải pháp chính trị thế tục.

      Ký ức Tập thể: Chấn thương của Holocaust đối với người Do Thái và Nakba đối với người Palestine là những lăng kính lịch sử không thể xóa bỏ. Những ký ức nền tảng này về sự diệt chủng và bị tước đoạt tài sản sẽ tiếp tục định hình nhận thức về mối đe dọa, sự thiếu tin tưởng và ý thức về công lý của cả hai dân tộc qua nhiều thế hệ.

7.2 Các Nhân Tố Thay Đổi Cuộc Chơi (Biến số có Tác động lớn, Không chắc chắn cao)

Đây là những cú sốc hoặc sự thay đổi tiềm năng có thể phá vỡ các cấu trúc sâu và thay đổi hoàn toàn các quy tắc của trò chơi:

      Thảm họa Khí hậu: Một sự kiện khí hậu thảm khốc—chẳng hạn như một đợt hạn hán kéo dài hàng thập kỷ làm cạn kiệt các tầng ngậm nước ven biển hoặc sa mạc hóa trên diện rộng—có thể khiến các tranh chấp hiện tại về biên giới trở nên thứ yếu. Điều này có thể buộc các bên phải hợp tác công nghệ và chính trị chưa từng có để sinh tồn, hoặc gây ra một cuộc chiến cuối cùng vì các nguồn tài nguyên còn lại.

      Sự Đột phá Công nghệ: Các công nghệ mang tính cách mạng có thể định hình lại cuộc xung đột. Trí tuệ nhân tạo trong chiến tranh tự động, các công nghệ khử muối giá rẻ và hiệu quả giải quyết hoàn toàn vấn đề nước, hoặc các công nghệ giám sát sinh trắc học toàn diện có thể tạo ra một trạng thái kiểm soát vĩnh viễn hoặc làm cho các biên giới truyền thống trở nên lỗi thời.

      Tái Sắp xếp Địa chính trị: Sự suy giảm tương đối của quyền lực Hoa Kỳ ở Trung Đông, sự trỗi dậy của các cường quốc mới (như Trung Quốc) với các lợi ích khác nhau, hoặc sự sụp đổ của các chế độ hiện tại (ví dụ ở Jordan hoặc Ả Rập Xê Út) có thể thay đổi hoàn toàn cấu trúc liên minh và bảo trợ đã định hình cuộc xung đột trong 75 năm qua.

      Cải cách Thần học: Một sự thay đổi lớn trong cách diễn giải thần học chính thống ở một hoặc cả hai bên. Điều này có thể bao gồm một phong trào trong Do Thái giáo tách rời chủ quyền chính trị khỏi sự cứu rỗi tôn giáo, hoặc một sự tái diễn giải trong Hồi giáo nhấn mạnh các giá trị phổ quát và chấp nhận sự đa dạng tôn giáo trong các vùng đất lịch sử của Hồi giáo. Mặc dù khó xảy ra, một sự thay đổi như vậy sẽ làm suy yếu nền tảng ý thức hệ của các tuyên bố độc quyền.

8. Các Kịch Bản cho Tương Lai Sâu Thẳm (3024 - 4024)

Dựa trên sự tương tác giữa các cấu trúc sâu và các nhân tố thay đổi cuộc chơi tiềm năng, chúng ta có thể phác thảo bốn kịch bản dài hạn, mang tính suy đoán nhưng hợp lý.

8.1 Kịch Bản A: Sự Lỗi Thời của Nhà Nước-Dân Tộc - "Liên Minh Levant"

Trong kịch bản này, các áp lực toàn cầu—hội nhập kinh tế, di cư hàng loạt, các thách thức môi trường chung và sự xói mòn của chủ quyền quốc gia—làm cho mô hình nhà nước-dân tộc của thế kỷ 20 trở nên lỗi thời ở Levant. Thay vì các đường biên giới cứng nhắc, khu vực này phát triển thành một liên minh hoặc một thực thể siêu quốc gia, có lẽ tương tự như Liên minh châu Âu hoặc gợi lại hệ thống millet của Ottoman nhưng dựa trên các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền. Các cộng đồng Do Thái, Hồi giáo, Kitô giáo và các cộng đồng khác sẽ có quyền tự trị văn hóa và tôn giáo mạnh mẽ trong một khuôn khổ chính trị và kinh tế chung. Các cuộc xung đột về chủ quyền lãnh thổ sẽ tan biến, được thay thế bằng các cuộc tranh luận chính trị về phân bổ nguồn lực và quyền của các nhóm trong một hệ thống chung.

8.2 Kịch Bản B: Sự Phán Xét của Sinh Thái - "Cuộc Chiến Nước hoặc Hòa Bình Thủy Lợi"

Biến đổi khí hậu không phải là một vấn đề từ từ mà là một cú sốc đột ngột. Một sự sụp đổ sinh thái trong khu vực, được đánh dấu bằng tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, khiến các cấu trúc xã hội hiện tại không thể duy trì. Điều này dẫn đến một trong hai kết quả trái ngược nhau. Kết quả thứ nhất là "Cuộc chiến Nước": các bên tham gia vào một loạt các cuộc chiến tranh ngày càng tuyệt vọng để giành quyền kiểm soát các nguồn nước cuối cùng, có thể leo thang thành việc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt và dẫn đến sự sụp đổ của nền văn minh trong khu vực. Kết quả thứ hai là "Hòa bình Thủy lợi": đối mặt với sự tuyệt chủng chung, các bên buộc phải tham gia vào một hình thức hợp tác công nghệ và chính trị sâu sắc chưa từng có. Một cơ quan quản lý tài nguyên chung, có thẩm quyền vượt qua các ranh giới dân tộc và tôn giáo, được thành lập để quản lý việc khử muối, tái chế nước và phân phối, tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau không thể phá vỡ và một nền hòa bình mới dựa trên sự sinh tồn chung.

8.3 Kịch Bản C: Sự Tan Băng Đồng Hóa - "Sự Tổng Hợp Abraham"

Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc, xung đột và trao đổi văn hóa không ngừng, một nền văn minh hỗn hợp, đồng hóa mới dần dần xuất hiện ở Levant. Các ranh giới tôn giáo cứng nhắc, vốn được củng cố bởi chủ nghĩa dân tộc của thế kỷ 20, bắt đầu mờ nhạt. Sự trỗi dậy của các phong trào tâm linh dung hợp, kết hợp các yếu tố của Do Thái giáo, Hồi giáo và các truyền thống khác, hoặc một chủ nghĩa thế tục sâu sắc hơn bén rễ trong dân chúng. Các cuộc hôn nhân dị chủng trở nên phổ biến. Bản sắc "người Do Thái" và "người Hồi giáo/Ả Rập" không biến mất, nhưng chúng được bổ sung—và đôi khi bị thay thế—bởi một bản sắc "Levantine" hoặc "Canaanite" chung, lấy cảm hứng từ một quá khứ chung sâu sắc hơn và một tương lai chung. Cuộc xung đột không được giải quyết về mặt chính trị, mà nó dần tan biến về mặt văn hóa.

8.4 Kịch Bản D: Sự Bế Tắc Kéo Dài - "Cuộc Xung Đột Vĩnh Cửu"

Trong kịch bản này, các cấu trúc sâu của cuộc xung đột chứng tỏ khả năng phục hồi đáng kinh ngạc trước mọi thay đổi. Logic của lý thuyết trò chơi—sự thiếu tin tưởng, vai trò của những kẻ phá bĩnh, nỗi sợ bị lợi dụng—vẫn không thay đổi. Cuộc xung đột tiếp tục, biến đổi hình dạng theo công nghệ và bối cảnh địa chính trị của từng thế kỷ. Các giai đoạn chiến tranh nóng xen kẽ với các giai đoạn ngừng bắn căng thẳng. Các giải pháp (một nhà nước, hai nhà nước, liên minh) được đề xuất, thử nghiệm và thất bại lặp đi lặp lại. Các khu định cư có thể được trang bị tường thành công nghệ cao; các cuộc tấn công có thể được thực hiện bằng máy bay không người lái tự động; các cuộc chiến tranh thông tin có thể diễn ra trong không gian ảo—nhưng động lực cơ bản của hai dân tộc cùng tuyên bố chủ quyền độc quyền đối với cùng một mảnh đất vẫn không thay đổi. Cuộc xung đột không được giải quyết mà chỉ được "quản lý" qua các thế hệ, trở thành một đặc điểm cố hữu, bi thảm của cảnh quan con người trong khu vực.

Kết Luận

Phân tích lịch sử và lý thuyết trò chơi về cuộc xung đột Do Thái-Hồi giáo cho thấy một bi kịch chiến lược sâu sắc. Hai dân tộc có nguồn gốc thần học chung, bị ràng buộc bởi địa lý và lịch sử, lại bị khóa chặt trong một cuộc đấu tranh có tổng bằng không, được duy trì bởi những ký ức đối lập, các tuyên bố không thể hòa giải và một cấu trúc khuyến khích sự phản bội hơn là hợp tác. Lịch sử không phải là một chuỗi các sự kiện ngẫu nhiên, mà là sự tích tụ của các lựa chọn chiến lược được đưa ra trong các bối cảnh bị giới hạn, nơi sự thiếu tin tưởng và nỗi sợ hãi đã biến những kết quả tồi tệ trở thành không thể tránh khỏi.

Nhìn về tương lai xa, trong khi các cấu trúc sâu của cuộc xung đột—nhân khẩu học, tôn giáo, ký ức—cho thấy một quán tính mạnh mẽ hướng tới sự tiếp diễn của kịch bản "Xung đột Vĩnh cửu", khả năng xảy ra các cú sốc mang tính thay đổi mô hình—sinh thái, công nghệ, hoặc địa chính trị—không thể bị loại trừ. Tương lai của cuộc xung đột trong 1000-2000 năm tới sẽ không được quyết định bởi việc lặp lại quá khứ, mà bởi cách các thế hệ tương lai phản ứng với những thách thức chưa từng có, những thách thức có thể khiến các ranh giới và lòng trung thành hiện tại trở nên lỗi thời, hoặc củng cố chúng một cách bi thảm. Con đường phía trước có thể dẫn đến sự hợp tác bắt buộc, sự đồng hóa văn hóa, hoặc sự hủy diệt lẫn nhau. Sự chắc chắn duy nhất là vùng đất này sẽ tiếp tục là một lò luyện cho đức tin, bản sắc và sự sinh tồn của con người.

Nguồn trích dẫn

1.     Do Thái giáo – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/Do_Th%C3%A1i_gi%C3%A1o

2.     Tìm hiểu về Do Thái giáo - PGS Hà Hoàng Kiệm, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://hahoangkiem.com/van-hoa-xa-hoi/tim-hieu-ve-do-thai-giao-1434.html

3.     Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái | Nghiên Cứu Lịch ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://nghiencuulichsu.com/2018/11/28/lich-su-thang-tram-4000-nam-cua-nguoi-do-thai/

4.     Tóm tắt về Islam: Sự ra đời và Mở rộng - Teachy, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://teachy.ai/vi_VN/summaries/giao-duc-trung-hoc-pho-thong/lop-10/lich-su/islam-su-ra-djoi-va-mo-rong-or-tom-tat-truyen-thong-f6aa82

5.     Lịch sử Hồi giáo – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_H%E1%BB%93i_gi%C3%A1o

6.     ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG giữa DO THÁI GIÁO và HỒI GIÁO – Lòng ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://longchuathuongxot.vn/v2/diem-tuong-dong-giua-do-thai-giao-va-hoi-giao-2/

7.     Người Hồi giáo và người Do Thái đã sống hòa bình với nhau trong ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.reddit.com/r/IsraelPalestine/comments/axc0sx/muslims_and_jews_have_lived_in_peace_during_the/?tl=vi

8.     Sự thật về Jerusalem - Cẩm nang hành hương thế giới, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.sacredsites.com/Trung-%C4%91%C3%B4ng/israel/jer-Jerusalem_facts.html

9.     Điều gì khiến Jerusalem được coi là vùng đất Thánh - iVIVU.com, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.ivivu.com/blog/2017/12/dieu-gi-khien-jerusalem-duoc-coi-la-vung-dat-thanh/

10.  NÚI ĐỀN, THÁNH ĐỊA BẬC NHẤT CỦA CÁC TÔN GIÁO LỚN TRÊN ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.mucvudothai.org/post/n%C3%BAi-%C4%91%E1%BB%81n-th%C3%A1nh-%C4%91%E1%BB%8Ba-b%E1%BA%ADc-nh%E1%BA%A5t-c%E1%BB%A7a-c%C3%A1c-t%C3%B4n-gi%C3%A1o-l%E1%BB%9Bn-tr%C3%AAn-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi

11.  Điều gì khiến Jerusalem được coi là vùng đất Thánh - Báo VnExpress Du lịch, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vnexpress.net/dieu-gi-khien-jerusalem-duoc-coi-la-vung-dat-thanh-3681154.html

12.  Du lịch Jerusalem - vùng đất linh thiêng của 3 tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://luhanhvietnam.com.vn/du-lich/huong-dan-du-lich-jerusalem-Israel.html

13.  Núi Đền thờ tại Old City | Expedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.expedia.com.vn/Temple-Mount-Old-City.d6076050.Tham-Quan-Diem-Den

14.  Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.7) - Nghiên cứu quốc tế, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://nghiencuuquocte.org/2015/10/27/lich-su-do-thai-p-7/

15.  Zionism: Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái – IRYS CLUB, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://iryoungscholars.wordpress.com/2018/11/04/chu-nghia-phuc-quoc-do-thai-zionism/

16.  Chủ nghĩa phục quốc Do Thái – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_ph%E1%BB%A5c_qu%E1%BB%91c_Do_Th%C3%A1i

17.  Chủ nghĩa phục quốc Do Thái: Hiểm họa cho nền hòa bình thế giới, truy cập vào tháng 10 17, 2025, http://vpdf.org.vn/tin-tuc-su-kien/chinh-tri-xa-hoi/chu-nghia-phuc-quoc-do-thai-hiem-hoa-cho-nen-hoa-binh-the-gioi.html

18.  29/11/1947: Liên Hợp Quốc bỏ phiếu phân vùng Palestine - Nghiên cứu quốc tế, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://nghiencuuquocte.org/2015/11/29/lien-hop-quoc-bo-phieu-phan-vung-palestine/

19.  Hajj Amin al-Husayni: Arab Nationalist and Muslim Leader ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://encyclopedia.ushmm.org/content/en/article/hajj-amin-al-husayni-arab-nationalist-and-muslim-leader

20.  Amin al-Husseini - Wikipedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/Amin_al-Husseini

21.  Lịch sử Palestine – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Palestine

22.  Balfour Declaration November 2, 1917 - The Avalon Project, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://avalon.law.yale.edu/20th_century/balfour.asp

23.  Balfour Declaration - UK/Non-UN document - Question of Palestine - the United Nations, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.un.org/unispal/document/auto-insert-193242/

24.  Balfour Declaration - Wikipedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/Balfour_Declaration

25.  Lãnh thổ Ủy trị Palestine – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3nh_th%E1%BB%95_%E1%BB%A6y_tr%E1%BB%8B_Palestine

26.  1936–1939 Arab revolt in Palestine - Wikipedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/1936%E2%80%931939_Arab_revolt_in_Palestine

27.  United Nations Partition Plan for Palestine - Wikipedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/United_Nations_Partition_Plan_for_Palestine

28.  CÁC MỐC CHÍNH TRONG XUNG ĐỘT GIỮA ISRAEL VỚI HAMAS ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://media.qdnd.vn/long-form/cac-moc-chinh-trong-xung-dot-giua-israel-voi-hamas-va-cac-luc-luong-lien-quan-58115

29.  Bước ngoặt năm 1948 trong lịch sử Palestine-Israel | SBS Vietnamese, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.sbs.com.au/language/vietnamese/vi/podcast-episode/buoc-ngoat-nam-1948-trong-lich-su-palestine-israel/m24eisunx

30.  Người tị nạn, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.palestineembassy.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=161:refugees&catid=3:policy&Itemid=6&lang=vi

31.  Hơn 7 thập kỉ người Palestine vật lộn sinh tồn trong lửa đạn ở Gaza, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://cand.com.vn/tu-lieu-quoc-te/hon-7-thap-ki-nguoi-palestine-vat-lon-sinh-ton-trong-lua-dan-o-gaza-i711551/

32.  Cuộc chiến 6 ngày năm 1967 đã thay đổi hoàn toàn Israel như thế nào? - Dân Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://danviet.vn/cuoc-chien-6-ngay-nam-1967-da-thay-doi-hoan-toan-israel-nhu-the-nao-20241026125937852-d1191623.html

33.  Lịch sử xung đột giữa Israel với người Palestine - VOA Tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.voatiengviet.com/a/lich-su-xung-dot-giua-israel-va-nguoi-palestine/7611244.html

34.  en.wikipedia.org, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/United_Nations_Security_Council_Resolution_242

35.  Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc – Wikipedia ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B_quy%E1%BA%BFt_242_c%E1%BB%A7a_H%E1%BB%99i_%C4%91%E1%BB%93ng_B%E1%BA%A3o_an_Li%C3%AAn_H%E1%BB%A3p_Qu%E1%BB%91c

36.  Camp David Accords - Wikipedia, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://en.wikipedia.org/wiki/Camp_David_Accords

37.  Hiệp ước hòa bình Oslo – Wikipedia tiếng Việt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C6%B0%E1%BB%9Bc_h%C3%B2a_b%C3%ACnh_Oslo

38.  30 năm Hiệp định Oslo: Cần một tiến trình mới, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://cand.com.vn/chuyen-de/30-nam-hiep-dinh-oslo-can-mot-tien-trinh-moi-i708308/

39.  13/09/1993: Ký Hiệp định hòa bình Israel-Palestine - Nghiên cứu quốc tế, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://nghiencuuquocte.org/2020/09/13/ky-hiep-dinh-hoa-binh-israel-palestine/

40.  30 năm Hiệp định Oslo: Cần một tiến trình mới - Chuyên trang An ..., truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://baomoi.com/30-nam-hiep-dinh-oslo-can-mot-tien-trinh-moi-c47038180.epi

41.  25 năm ký Hiệp định Oslo: Khát vọng hòa bình không bao giờ tắt, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/25-nam-ky-Hiep-dinh-Oslo-Khat-vong-hoa-binh-khong-bao-gio-tat-i491374/

42.  Các khu định cư, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://www.palestineembassy.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=162:settlements&catid=3:policy&Itemid=6&lang=vi

43.  Lê Thị Ánh Tuyết. Chính sách của Mỹ đối với xung ... - Scholar DLU, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/150767/1/CVv361S42021026.pdf

44.  Xung đột tại Gaza: Vì sao Mỹ vẫn đơn phương bảo vệ Israel? - Báo Tuổi Trẻ, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://tuoitre.vn/xung-dot-tai-gaza-vi-sao-my-van-don-phuong-bao-ve-israel-2023121007591478.htm

45.  Trách nhiệm quốc tế trước bước ngoặt Palestine, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://daibieunhandan.vn/trach-nhiem-quoc-te-truoc-buoc-ngoat-palestine-10384144.html

46.  Israel duyệt xây thêm khu định cư ở Bờ Tây, LHQ và Anh lên án - PLO, truy cập vào tháng 10 17, 2025, https://plo.vn/israel-duyet-xay-them-khu-dinh-cu-o-bo-tay-lhq-va-anh-len-an-post866644.html