Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024

Nghi ngờ về lịch sử Nước Nam

Các khoa học gia cho rằng nơi phát minh ra những ký tự đầu tiên để bắt đầu cho lịch sử của chữ viết là vùng đất Sumer nơi được bao bọc bởi 2 con sông Tigris và Euphrates, giới truyền thông nói tiếng Nước Nam vẫn gọi vùng này là Lưỡng Hà.

Các khoa học gia cho rằng, thời điểm xuất hiện những ký tự đầu tiên ở Sumer là khoảng năm 3400 trước Jesu Christ (BC) (Trước Công Nguyên), tức là cách nay chừng 5500 năm.

Các nhà khoa học cũng tin rằng chữ viết của người Trung Quốc (chữ Hán) bắt đầu xuất hiện đầu tiên vào thời nhà Thương khoảng 1800 BC (trước Jesu Christ), tức là cách đây chừng 3800 năm.

 

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024

William J. Duiker - Hồ Chí­ Minh Một Cuộc Đời - Người dịch: Nguyễn Thành Nam

Link: https://vietmessenger.com/books/?title=ho%20chi%20minh%20%20mot%20cuoc%20doi

William J. Duiker

Hồ Chí­ Minh

Một Cuộc Đời

Nguyên tác: Ho Chi Minh: A Life

Người dịch: Nguyễn Thành Nam

Lời tựa của tác giả

Tôi (W. Duiker) đã bị hấp dẫn bởi HCM từ giữa những năm 1960, khi còn là một nhân viên đối ngoại trẻ tuổi làm việc tại toà đại sứ Mỹ. Tôi đã bị lúng túng khi phát hiện thấy những du kích Việt cộng trong rừng tỏ ra có kỷ luật và được động viên tốt hơn quân đội chính quy của chính quyền Sài gòn được chúng tôi ủng hộ. Tôi đã để tâm tìm hiểu và tìm ra lời giải thích qua vai trò chiến lược và động lực thúc đẩy của nhà cách mạng Việt nam lão thành HCM

Sau khi ra khỏi chính phủ để tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học của mình, tôi đã nghĩ tới việc viết tiểu sử của con người kỳ lạ này, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng trong bối cảnh lịch sử thời đó, chưa thể có đầy đủ điều kiện để tiếp cận các nguồn thông tin. Bởi thế cho đến tận gần đây, khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới trở nên cởi mở hơn đã thúc đẩy tôi bắt đầu sự nghiệp khó khăn này.

Hôm nay, sau hơn 2 thập kỷ trăn trở, tôi muốn cám ơn các con gái tôi Laura và Claire đã không phàn nàn kêu ca, lắng nghe cha chúng thuyết giảng hàng giờ về Việt nam. Tôi vô cùng biết ơn vợ tôi Yvone, người đầu tiên đọc bản thảo, người đã kiên nhẫn chấp nhận HCM như một thành viên của gia đình chúng tôi.

Danh sách các tổ chức được nhắc đến trong cuốn sách này:

Đảng cộng sản Annam (ACP): đảng được thành lập tại Đông dương năm 1929 sau khi Hội thanh niên cách mạng bị giải thể. Sau đó được sát nhập vào Đảng cộng sản Việt nam tháng 2/1930

Đội tuyên truyền giải phóng quân (APB): tiền thân chính thống của quân đội Việt nam

Cứu quốc quân: các đơn vị vũ trang được tổ chức hoạt động chống Pháp và Nhật, sau đó được sát nhập vào APB thành quân giải phóng Việt nam (VLA)

Quân đội Việt nam cộng hòa: quân đội của chính quyền miền Nam từ 1956-1975 Quốc gia Liên hiệp Việt nam (ASV): chính quyền của Bảo đại được hiệp định Elysee năm 1949 thừa nhận. ASV hợp tác với Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Việt minh.Sau hiệp định Geneva ASV bị chính quyền miền Nam độc lập thay thế

Tâm Tâm Xã (Association of like mind): tổ chức cách mạng cực đoan do một số phần tử di cư thành lập ở Nam trung quốc năm 1924. Sau này bị Q biến thành Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội

Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max: Hội trên giấy do đảng cộng sản đông dương lập ra khi tự giải tán và rút vào bí mật tháng 11 năm 1945.

Cao đài: một tôn giáo hổ lốn phát sinh ở Nam bộ vào cuối thế chiến thứ nhất. Cao đài chống lại tất cả các chính quyền muốn kiểm soát nó. Hiện vẫn đang còn hoạt động

Đảng nhân dân cách mạng Campuchia (CPRP): một trong 3 đảng thừa kế đảng Cộng sản Đông dương bị giải tán năm 1951. Các lực lượng vũ trang của CPRP được gọi là Khơ me đỏ. Giữa những năm 60,Đảng cộng sản Khơ me thay thế CPRP.

Trung ương cục miền Nam (COSVN): cơ quan đầu não của đảng cộng sản ở phía Nam trong hai cuộc chiến tranh. Thành lập năm 1951 và giải tán sau năm 1975 Quốc tế cộng sản: tổ chức cách mạng được thành lập tại nước Nga Xô viết năm 1919, lãnh đạo hoạt động của các đảng thành viên. Giải tán năm 1943. Đảng CS Đông dương gia nhập năm 1935.

Đông dương cộng sản Đảng (CPI): Tổ chức chết yểu, gồm những phần tử ly khai khỏi Thanh niên Hội năm 1929. Đầu năm 1930, lại hợp nhất với Tân Việt và Hội thành đảng Cộng sản Việt nam.

Đảng hiến pháp: đảng chính trị ôn hòa do một số phần tử cải lương thành lập ở Nam bộ đầu những năm 1920. Đảng này chủ trương dành quyền tự trị dưới sự bảo trợ của Pháp. Lãnh đạo là Bùi Quang Chiêu hay lên tiếng phê phán đảng Cộng sản và bị thủ tiêu trong thời gian cách mạng tháng 8.

Đảng Đại Việt: thành lập trong thời kỳ thế chiến 2, theo Nhật chống Pháp. Đảng này tồn tại ở Nam Việt nam đến tận năm 1975.

Việt nam dân chủ cộng hòa (DRV): chính phủ do HCM lập ra ngày 2/9/1945. Hiệp định Geneva năm 1954 thừa nhận chủ quyền của DRV ở miền Bắc VN. Năm 1976 đổi thành CH XHCN Việt nam

Đông kinh nghĩa thục (Hanoi Free School): trường học do một số nhà yêu nước lập ra ở Hà nội để thúc đẩy cải cách trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Sau khi bị Pháp đóng cửa, những nhà sáng lập đã truyền đạt ý tưởng vào trường Dục Thanh ở Phan thiết, nơi Q đã từng dạy năm 1910.

Việt nam cách mạng Đồng minh Hội (Đồng minh Hội): con đẻ của tướng Quốc dân đảng Trương Phát Khuê, liên kết một số đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, thành lập tháng 8/1942. Khuê định dùng liên minh này để chống Nhật ở Đông dương. Mặc dù Q đã tranh thủ lợi dụng cho mục đích của mình, sau thế chiến II, Hội này quay ra chống Đảng cộng sản đông dương kịch liệt. Khi cuộc chiến với Pháp nổ ra tháng 12/1946, Hội này coi như giải tán.

Mặt trận Tổ quốc: thành lập năm 1955, thay thế cho mặt trận Liên Việt và trước đó là Việt minh

Hòa hảo: cũng là một tôn giáo hổ lốn do nhà sư Huỳnh Phú Sổ thành lập năm 1939. Cực kỳ chống Pháp, và chống cả Cộng. Hiện vẫn đang hoạt động

Thanh niên cao vọng: một tổ chức dân tộc do Nguyễn An Ninh lập ở Sài gòn giữa những năm 1920. Chết yểu.

Đảng cộng sản Đông dương (ICP): do HCM và các đồng chí thành lập tháng 10/1930. Trước đó là đảng cộng sản Việt nam. Tự giải tán năm 1945. Thành lập lại năm 1951 dưới tên Đảng lao động Việt nam.

Liên bang Đông dương: kế hoạch của ICP để thống nhất Đông dương. Sau năm 1951, kế hoạch này được gọi là "mối quan hệ đặc biệt" giữa ba nước.

Liên hiệp Đông dương: tổ chức hành chính do Pháp lập ra cuối thế kỷ 19 để bảo đảm luật lệ của Pháp ở khu vực.

Ủy ban kiểm tra quốc tế: giám sát thực thi hiệp định Geneva, gồm có Canada, ấn độ, Ba lan

Đảng nhân dân cách mạng Lào: đảng do ĐCS Việt nam bảo trợ, thành lập đầu năm 1950, còn hay được gọi là Pathet Lào

Mặt trận Liên Việt: do ICP thành lập năm 1946 để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng với đảng, sát nhập với Việt minh năm 1951, đến năm 1955 bị Mặt trận Tổ quốc thay thể

Quốc học: trường trung học uy tín ở Huế, thành lập năm 1896, đào tạo các quan lại thế hệ mới, dạy tiếng Pháp và các môn văn minh phương Tây. Q học trường này từừ 1908.

Vệ quốc quân: tên khác của Giải phóng quân (VLA) sau CMT8, được chọn để tránh rắc rối với lực lượng Tàu đang chiếm đóng.

M ặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (NLF): liên minh rộng rãi nhiều nhóm chống đối tại miền Nam, thành lập năm 1960 dưới sự bảo trợ của DRV, giải tán năm 1976. ủy ban giải phóng dân tộc: thành lập ở Tân trào để chuẩn bị cho CMT8. H làm chủ tịch Tân Việt:đảng cách mạng chống Pháp, thành lập cuối những năm 1920, sau đó sát nhập vào với ICP

Quân đội nhân dân Việt nam: thành lập ở DRV sau 1954, thừa kế Giải phóng quân Việt nam hoạt động trong chiến tranh chống Pháp.

SEATO: liên minh do Mỹ thành lập để ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở Đông Nam á.

Thanh niên tiền phong: do Phạm Ngọc Thạch thành lập trong thời gian thế chiến 2, được Nhật ủng hộ. ICP đã dùng lực lượng này để hỗ trợ CMT8 tại Sài gòn.

Việt cộng: tên miệt thị để chỉ quân giái phóng miền Nam Việt nam, lực lượng vũ trang của NLF

Việt minh: do ICP đứng ra thành lập tháng 5/1941. Lực lượng chính trị chủ yếu trong chiến tranh với Pháp sau 1945

Đảng cộng sản Việt nam: do H thành lập tháng 2/1930. Sau đó đổi thành ICP. Đến tháng 12/1976 mới lấy lại tên này.

Đảng dân chủ Việt nam: tập hợp những phần tử yêu nước không cộng sản trong thành phần Việt minh. Tồn tại đến sau năm 1976

Quân đội quốc gia Việt nam: tên chính thức của các lực lượng vũ trang của Quốc gia liên hiệp do Bảo đại cầm đầu. Năm 1956 được Quân đội Việt nam cộng hòa thay thế.

Việt nam quốc dân đảng: đảng dân tộc không cộng sản, thành lập ở Bắc kỳ năm 1927. Trong nhiều thập kỷ là đối trọng chính trị chủ yếu của ICP. Nay đã bị giải tán.

Việt nam quang phục Hội: đảng chống thực dân do Phan Bội Châu thành lập năm 1912. Mục tiêu thay thế chế độ quân chủ bằng nền cộng hòa. Sau mấy cuộc nổi dậy thất bại, đảng bị mất uy tín và tan rã.

Mở đầu

Sáng 30/4/1975, từng đoàn xe tăng Liên xô do các chiến binh Bắc Việt với mũ cối gắn sao vàng vẫy cờ của PRG vượt qua những vùng ngoại ô Sài gòn tiến thẳng tới dinh Độc lập. Đoàn xe từ từ vượt qua Toà Đại sứ Mỹ, nơi những chiếc trực thăng đang di tản những người Mỹ cuối cùng. Chiếc tăng đầu tiên do dự đôi chút rồi húc đổ cánh cổng sắt tiến thẳng vào sảnh. Viên chỉ huy lao ra, leo lên nóc toà nhà thay thế lá cờ ba que của Việt nam cộng hoà bằng lá cờ xanh đỏ của PRG. Cuộc chiến dai dẳng nhất trong lịch sử nước Mỹ đã đến hồi kết sau gần 1 thập kỷ ác liệt và đẫm máu, cướp đi hơn 58 ngàn sinh mạng.

Chiến thắng của cộng sản tại Sài gòn là kết quả của sự quyết tâm và tài năng của VWP dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn cộng với sự hy sinh của các chiến binh - bộ đội (tương tự như người Mỹ gọi các người lính là GI) , những người đã chiến đấu và ngã xuống vì sự nghiệp cách mạng trong các cánh rừng và đầm lầy Việt nam. Nhưng cao hơn tất cả, chiến thắng đó được xác định bởi một tầm nhìn, ý chí và sự lãnh đạo của một con người: HCM. Đặc vụ của QTCS tại Matxcơva, thành viên của phong trào cộng sản quốc tế, người kiến tạo cho thắng lợi của Việt nam, không nghi ngờ gì nữa, HCM là một trong những nhà chính trị có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Đồng thời, ông cũng là một trong những con người bí hiểm nhất, một nhân vật mờ ảo mà lý lịch và động cơ của ông luôn gây nên những cuộc tranh luận không ngừng.

Ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay là một người cộng sản? Hình ảnh một con người giản dị và quên mình là chân thật hay đơn giản chỉ là kết quả của các ngón kỹ xảo? Với những người ủng hộ, Hồ là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, người cống hiến cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của đồng bào và các dân tộc bị áp bức. Với những người đã được tiếp kiến ông, Việt nam hay nước ngoài, ông là một người hết sức nhã nhặn, một nhà yêu nước quên mình, luôn đau nỗi đau chung của dân tộc. Những người phê phán lại vạch ra những hành động cách mạng quá trớn được thực hiện dưới tên ông, tố cáo ông là con thằn lằn hoa, là sói đội lốt cừu.

Câu hỏi về tính cách và động cơ của HCM là tâm điểm của các cuộc tranh luận tại Mỹ về đạo lý của cuộc chiến ở Việt nam. Với những nhà phê phán chính sách của chính phủ Mỹ, ông đơn giản là một nhà cách mạng đấu tranh vì độc lập của Việt nam, một đối thủ mạnh mẽ của chủ nghĩa đế quốc trong Thế giới thứ ba. Những người ủng hộ cuộc chiến thì lại nghi ngờ về động cơ yêu nước, cho rằng ông là đặc vụ của Stalin.

Đối với người Mỹ, cuộc luận chiến về sự đam mê của HCM dần dần đã thành quá khứ. Nhưng đối với Việt nam, nó gợi lên những câu hỏi có tính chất nền móng, bởi vì nó định nghĩa một trong những vấn đề căn bản của cách mạng Việt nam: mối quan hệ dựa sự tự do của con người và bình đẳng kinh tế trong Việt nam sau chiến tranh. Từ sau cuộc chiến, nhiều đồng chí hiện đang cầm quyền đã mượn uy ông để biện hộ cho mô hình cộng sản phát triển đất nước. Họ nói rằng, mục tiêu cuối cùng của ông là kết liễu sự bóc lột toàn cầu của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới theo những viển vông của K. Marx. Nhưng cũng có một vài giọng chống đối đã phản biện rằng, thông điệp lớn nhất của cuộc đời ông là xoa dịu quy luật đấu tranh giai cấp của Marx bằng cách hoà trộn nó với đạo đức Khổng tử và thuyết ba ngôi của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Họ dẫn lời của ông: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

Sự phức tạp trong tính cách của ông thể hiện sự phức tạp của thế giới thế kỷ 20, thế kỷ của chủ nghĩa dân tộc, cách mạng, chủ nghĩa bình đẳng và cuộc đấu tranh cho tự do. Dù tốt hay xấu, HCM là hiện thân của hai thế lực chủ yếu đang điều khiển xã hội hiện đại: sự khát khao độc lập dân tộc và cuộc tìm kiếm công lý xã hội và bình đẳng kinh tế. Đã đến lúc phải phơi bày nhân vật bao trùm thế kỷ 20 này cho sự phân tích lịch sử. Tuy cái tên HCM được hàng triệu triệu người biết đến, nhưng không phải dễ dàng có thể kiểm tra được các nguồn thông tin về ông. Như một nhà cách mạng chống Pháp ông luôn luôn phải sống trong bí mật, sử dụng nhiều tên tuổi khác nhau. Thống kê cho thấy ông đã sử dụng hơn 50 cái tên trong cuộc đời và các bài viết. Bản thân HCM cũng làm vấn đề thêm phức tạp bằng cách tự sáng tạo ra những huyền thoại về cuộc đời mình. Vào cuối những năm 1950, một số tiểu sử của HCM được công bố và chỉ đến gần đây các nhà nghiên cứu mới xác nhận được những tác phẩm đó thực sự là của HCM. Phong cách lãnh đạo của ông cũng làm các nhà nghiên cứu chú ý. Mặc dù là người sáng lập ra Đảng cộng sản Đông dương (ICP), nhưng khác với Lênin, Stalin hay Mao Trạch Đông, HCM thường lãnh đạo bằng cách thuyết phục và đồng thuận thay cho việc áp đặt ý chí của mình. Ông cũng rất kín đáo với những tư tưởng và động cơ bên trong của mình. Trái với các nhà cách mạng nổi tiếng khác, ông không sa đà vào các cuộc tranh luận về hệ triết học tư tưởng mà tập trung toàn bộ tâm trí của mình để giải quyết các vấn đề cụ thể để giải phóng Việt nam và các dân tộc bị áp bức khỏi ách đô hộ của phương Tây. Trong một cuộc phỏng vấn khi được hỏi sao ông không bao giờ viết các chuyên luận về tư tưởng, HCM đã trả lời rằng ông muốn nhường việc đó lại cho Mao. Trong những năm cuối của ông, các tác phẩm nghiêm túc về học thuyết đều do những học trò của ông như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn viết.

Bao giờ cũng có những yếu tố huyền thoại bao quanh những con người nổi tiếng. Không phải ai cũng biết cách tạo và hưởng thụ những huyền thoại như HCM. Từ vị trí trong đền thờ của những vị thánh cách mạng, HCM chắc sẽ rất vui lòng được biết rằng, hương khói huyền thoại bao quanh ông vẫn còn nguyên trong cuốn tiểu sử này.

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

Lịch sử về ngày Quốc Tế Phụ Nữ - International Women's Day

Nói trước là tôi không thích ngày 8 March.

Đơn giản là người Nước Nam có một lịch sử gần hai ngàn năm tôn vinh người phụ nữ Nước Nam anh hùng là ngày 6 Tháng Hai Âm Lịch.

Trưng Nữ Vương là 2 vị vua đầu tiên của Nước Nam và cũng là hai vị Phụ Nữ Anh Hùng đầu tiên của Nước Nam được chép lại trên sách.

Có cái lịch sử tốt như vậy, sao không kỷ niệm? Đi rước cái ngày quốc tế về làm gì?



Bọn "dư luận viên" hay chửi lũ "phản động" chúng tôi là "me Tây", ủa vậy chứ rước cái ngày của Cuốc Tế về thì không "me Tây".

Rước cái ngày Cuốc Tế về đã là "cám hấp" rồi, lại còn bịa thêm ra cái ngày 20 Tháng Mười và cố tình dùng thuật ngữ "Ngày Phụ Nữ Việt Nam" để nhồi sọ quần chúng. Ngày 20 Tháng Mười chẳng qua chỉ là ngày thành lập Hội Liên Hiệp Phụ Nữ (theo cộng sản) thôi mà. Không lẽ tất cả phụ nữ ở VN đều là cộng sản hết hay sao?

Trên đây chỉ là quan điểm cá nhân. Còn dưới đây chỉ là dịch lại chữ viết trên web của United Nation (Liên Hợp Cuốc).

Và Liên Hợp Cuốc (UN) cũng không phải là một tổ chức gì đáng tin cậy cả nhé! Nên quí vì đọc thì đọc, nhưng cũng cần có sự suy tư riêng. Chứ cái gì cũng vửa nghe "Dòng Chính" nói cái là tin ngay thì mớ tàu hũ bên trong cái gáo dừa tồn tại thật là lãng phí.

= = = = =

UN - Liên Hợp Cuốc 

Năm 1848:

Phụ nữ bị cấm phát biểu tại một hội nghị chống chế độ nô lệ.

Phẫn nộ.

Hai người Mỹ là Elizabeth Cady Stanton và Lucretia Mott đã tập hợp hàng trăm người tại hội nghị toàn quốc đầu tiên về quyền phụ nữ. Hội nghị tổ chức ở New York. Họ cùng nhau đòi hỏi các quyền tự do dân sự, xã hội, chính trị và tôn giáo cho phụ nữ trong tuyên bố có tên là "Declaration of Sentiments and Resolutions". Đó là ngày khai sinh ra phong trào phụ nữ.

Năm 1909:

Ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên được ghi nhận tại Mỹ (United States) là ngày 28 tháng 2. Đảng Xã Hội chọn ngày này để vinh danh cuộc đình công của công nhân may mặc năm 1908 ở New York. Phụ nữ đã đình công để phản đối điều kiện làm việc quá tồi tệ.

Năm 1910:

Hội nghị Quốc Tế Xã Hội Chủ Nghĩa họp tại Copenhagen, Đan Mạch (Denmark). Hội nghị đã thành lập Ngày Phụ Nữ mang tính chất quốc tế để tôn vinh phong trào nữ quyền và xây dựng sự hỗ trợ để đạt được quyền bầu cử phổ thông cho phụ nữ.

Năm 1911:

Mỹ và một số nước Âu Châu kỷ niệm ngày Quốc Tế Phụ Nữ vào ngày 19 Tháng Ba (19th March). Họ chọn ngày đó để kỷ niệm cuộc cách mạng phụ nữ năm 1848 và "Công Xã Paris" (Commune de Paris).

Ngoài quyền bầu cử và giữ chức vụ công, họ còn yêu cầu quyền làm việc, đào tạo nghề của phụ nữ và chấm dứt phân biệt đối xử trong công việc.

Năm 1913:

Năm này hội phụ nữ người Nga rất có quyền lực.

Để phản đối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là một phần của phong trào hòa bình, phụ nữ Nga đã tổ chức Ngày Quốc Tế Phụ Nữ đầu tiên ở Nga vào Chủ Nhật cuối cùng của Tháng Hai (theo lịch của Nga).

Những năm sau đó, những nơi khác ở Châu Âu, phụ nữ tổ chức các cuộc biểu tình để phản đối chiến tranh hoặc bày tỏ tình đoàn kết với các nhà hoạt động khác vào khoảng ngày 8 Tháng Ba.

Năm 1915:

Sự căng thẳng nuôi dưỡng bấy lâu và leo thang lên đến đỉnh điểm vào ngày 28 Tháng Sáu năm 1914, và Serbia tuyên chiến vào ngày 28 Tháng Bảy năm 1914 - Thế chiến thứ nhất bùng nổ.

Mệt mỏi vì sự hung hăng của bọn đàn ông, gây ra chiến tranh thế giới thứ nhất, một cuộc tụ tập đông đảo phụ nữ được tổ chức tại La Hay, Hà Lan (Den Haag (tiếng Hà Lan), The Hague (English), La Haye (Française)) vào ngày 15 Tháng Tư năm 1915. Những người tham gia bao gồm hơn 1.300 phụ nữ từ hơn 12 quốc gia. Họ phản chiến. Phản chiến vô hiệu.

Năm 1917:

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vẫn đang tiếp diễn.

Phụ nữ ở Nga lại chọn biểu tình và đình công vì "Bánh mì và hòa bình" ("Bread and Peace") vào Chủ Nhật cuối cùng của tháng 2 (theo lịch Nga).

Bốn ngày sau, Sa Hoàng Czar thoái vị và chính phủ lâm thời trao quyền bầu cử cho phụ nữ Nga.

Ngày Chúa Nhật cuối cùng của Tháng Hai năm 1917 theo lịch Nga là ngày 8 Tháng Ba Tây Lịch. 

Sau Thế Chiến 2 (Sau 1945):

Một số nước bắt đầu kỷ niệm ngày 8 Tháng Ba.

Năm 1975:

Năm 1975 là năm Phụ Nữ Quốc Tế.

Liên Hợp Cuốc (UN) cũng bắt đầu kỷ niệm ngày 8 Tháng Ba.

Năm 1977:

Đại Hội Đồng LHQ cũng thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng: Ngày Liên Hợp Cuốc cho Nữ Quyền và Hòa Bình Quốc Tế (United Nations Day for Women's Rights and International Peace) được các quốc gia thành viên tổ chức vào ngày nào cũng được phù hợp với lịch sử và truyền thống mỗi nước.

Theo đó, không hiểu sao Nước Nam không chọn ngày 6 Tháng Hai Âm Lịch?

Năm 1995:

Cái gọi là Tuyên Bố và Cương Lĩnh Bắc Kinh cho Hành Động (Beijing Declaration and Platform for Action) đã đạt được thỏa thuận.

Kinh không? Bắc Kinh trở thành mẫu mực của Nữ Quyền mới ghê!

Thỏa thuận này có 12 lãnh vực quan trọng. Và mục tiêu số 5 là “Giành được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái”.

= = = = =

Tôi được sanh ra năm 1974. Từ đó đến nay, tôi chưa quan sát được sự "mất bình đẳng giới" nhiều lắm. Tôi tự mình thấy Phụ Nữ có mọi quyền mà tạo hóa ban cho. Khi tôi vào đại học năm 1990, tôi phát hiện cái "mất bình đẳng" đầu tiên: Phụ nữ không được học ngành mà tôi học - ngành học để làm việc trên tàu biển. Tôi còn nhớ lang máng là hồi đó trong quyển hướng dẫn đăng ký thi đại học họ có ghi chú "ngành đi biển, không tuyển nữ". Đó duy nhất cái đó là tôi thấy "mất bình đẳng".



Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2024

Quốc gia NAVAJO trong lòng United States

Người dân NAVAJO ở Mỹ có số dân khoảng chưa đến 300 ngàn người.

Quốc gia NAVAJO khá là rộng nằm trải qua 3 nước Arizona, nước Utah và nước New Mexico.

Một số phần đất của quốc gia này không dính liền với nhau.



Người NAVAJO không nói tiếng Mỹ, họ vẫn dùng thứ tiếng riêng của họ.

Chính phủ NAVAJO theo cơ chế tam quyền phân lập: Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp.

Tổng thống đương nhiệm được bầu vào tháng 11 năm 2022 là ông tiến sĩ Buu Van Nygren, một người lai - mẹ là người NAVAJO, cha là người Miền Nam Việt Nam. Tiến sĩ Buu Van Nygren bắt đầu công việc tổng thống từ tháng 1 năm 2023.

 

Đọc thêm về quốc gia Navajo ở đây Home (navajo-nsn.gov)