Link: Triệu Ẩu - Người Kể Sử (nguoikesu.com)
Bà Triệu (chữ Hán: 趙婆), còn được gọi là Triệu Ẩu (趙嫗), Triệu Trinh Nương (趙貞娘), Triệu Thị Trinh (趙氏貞), Triệu Quốc Trinh (225–248), là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ 15 viết:
- Triệu Ẩu (tức Bà Triệu) là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.1
Sử nhà Nguyễn ở thế kỷ 19 cũng đã chép:
- Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu.2
Bối cảnh
Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về bắc thuộc Quảng Châu dùng Lữ Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về nam là Giao Châu, sai Đại Lương làm thái thú; và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.
Bản đồ Tam quốc năm 262, Đông Ngô kiểm soát Giao châu.
Thứ sử Lữ Đại bèn xua quân sang đánh dẹp. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lữ Đại giết chết Huy, còn mấy anh em thì đem về đất Ngô làm tội. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lữ Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.
Cuộc đời và sự nghiệp
Bà Triệu sinh năm Bính Ngọ (226)3 tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Thuở nhỏ cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng4 ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt 5 , bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn, Mậu Lâm huyện Như Thanh, Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hoá), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố6 nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.7 Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi8 và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh9 , vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền10 . Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.
Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248), lúc mới 23 tuổi. Có giai thoại nói rằng tướng giặc lợi dụng việc phận nữ nhi đã truất bỏ y phục trên người khiến Bà Triệu từ đó xấu hổ mà dẫn đến tự tử.
Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265.11
Câu nói
Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói:
“ | Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!12 | ” |
Tưởng nhớ
Về sau vua Lý Nam Đế (tức Lý Bí) khen Bà Triệu là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: "Bậc chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".
Hiện nay, nơi núi Tùng (xã Triệu Lộc), vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A (đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc) là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 (âm lịch), người dân trong vùng vẫn tổ chức tế giỗ bà. Tại nhiều tỉnh thành trong nước Việt Nam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu.
Thơ ca, câu đối
Trong Đại Nam quốc sử diễn ca, có đoạn Bà Triệu Ẩu đánh Ngô, khái quát rất sinh động:
|
|
Tương truyền quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:
|
|
Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau:
|
|
Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập, và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự...đều có thơ khen ngợi Bà Triệu.
Vấn đề liên quan
Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa
Lâu nay sử sách đều biên chép cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, và bà đã tự vẫn năm 248. Tuy nhiên, GS. Lê Mạnh Thát đã dẫn Thiên Nam ngữ lục và Ngụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây. Và Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến khi Đặng Tuân được Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ vào năm 257.13 Tuy nhiên, ý kiến mới mẻ này còn phải được sự đồng thuận của nhiều người trong giới.
Tên gọi
Những bộ sử cổ chỉ gọi bà là Triệu nữ (cô gái Triệu), Triệu Ẩu. Những tên gọi Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Trinh... theo Văn Lang thì rõ ràng là mới đặt gần đây. Tác giả cho biết vấn đề tên gọi này (cũng như tên gọi của Bà Trưng) thuộc phạm trù ngôn ngữ Việt cổ và cách đặt tên người ở thời gian đầu Công nguyên, còn đang được nghiên cứu (tr. 33).
Ngoài ra, Bà Triệu còn được người đời tôn là Nhụy Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều) và Lệ Hải bà vương (vua bà ở vùng biển mỹ lệ).14
Riêng cái tên Triệu Ẩu (趙嫗), thấy xuất hiện lần đầu trong Nam Việt chí, Giao Châu ký (thế kỷ 4, 5) rồi đến Thái bình hoàn vũ (thế kỷ 10) chua dưới mục Quân Ninh (tức Quân yên cũ).15
Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hóa kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục... đều gọi bà là Triệu Ẩu. Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản Việt Nam sử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh (tr. 52).
Kể từ đó có nhiều lý giải khác nhau, như:
- Sử gia Phạm Văn Sơn: Vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu (Ẩu có nghĩa là mụ) để tỏ ý khinh mạn (tr. 205).
- Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1): Sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu (người vú em) (tr. 109).
- Một số người lại giải thích "ẩu" nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là "nữ tù trưởng Triệu".
Hình tượng vú dài
Sách Giao Chỉ chí chép:
- Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.16
Sách Những trang sử vẻ vang... giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất (terre-Mère, Déesse-Mère). Sau hình tượng đó được khoát cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào (tr. 129). Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam (tập I) cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước... Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà (tr. 345).
Chú thích
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1), tr. 101.
- ^ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 3, tờ 9). Đoạn sách trên có thêm câu nữa, đó là: Nhưng nếu nói vú dài ba thước thì thật là quái gở và đáng cười lắm.
- ^ “Cổng Thông tin Điện Tử Tỉnh Hậu Giang Trang chủ”. Truy cập 5 tháng 10 năm 2015.
- ^ Truyền thuyết và thần tích cho rằng Triệu Quốc Đạt làm huyện lệnh. (Lịch sử Việt Nam, Tập I, tr. 345).
- ^ Ghi theo Việt Nam sử lược (tr. 52). Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 905) và Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, tr. 108) đều chép rằng: Biết sự chuẩn bị khởi nghĩa của Bà Triệu, người chị dâu toan đi tố cáo với quân Ngô nên bị bà giết chết. Truyền thuyết và thần tích thì cho rằng bà này phạm tội lăng loàn (Lịch sử Việt Nam, trước thế kỷ 10, tr. 108).
- ^ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã, gần nơi hợp lưu của sông Chu vào sông Mã, là đầu mối giao thông quan trọng ngày nay là đất thuộc làng Giàng, Xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
- ^ Chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (tr. 905). Sách Giai thoại về phụ nữ VN (tr 10) và Danh nhân đất Việt (tr. 46) đều ghi ông Đạt tử trận.
- ^ Hình ảnh này của Bà Triệu đã được sử phong kiến Trung Quốc là Nam Việt chí và Giao Châu chí ghi lại (Theo Danh nhân đất Việt, tập 1, tr. 47).
- ^ Sách Ngô Thư chép: Toàn thể Giao Châu đều chấn động. Dẫn lại theo Danh nhân đất Việt (tập 1), tr. 50.
- ^ Những trận đánh ác liệt diễn ra tại căn cứ Bồ Điền đã để lại những dấu tích trong lòng đất nơi đây. Năm 1965, nhân dân đào mương làm thuỷ lợi đã phát hiện nhiều loại binh khí bằng đồng như giáo, mác, mảnh giáp đồng và cả xương người và xương ngựa [1].
- ^ Theo
- ^ Chép theo Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 1, tr. 89). Câu nói này thấy chép đầu tiên trong sách Thanh Hoá kỷ thắng của Vương Duy Trinh, sống vào thế kỷ 19, từng làm tổng đốc Thanh Hoá. Có bản chép khác một vài chữ. Thí dụ như trong sách Việt Nam sử lược: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở bể đông, quét sạch bờ-cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối, chứ không thèm bắt-chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta" (tr. 50).
- ^ Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Tập 1, trang 385-386) hoặc xem chi tiết ở Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động.
- ^ Lục Dận một mặt dùng tiền của đút lót mua chuộc những kẻ dao động, một mặt dụ dỗ Bà Triệu ra hàng, hứa sẽ phong làm Lệ Hải bà vương (theo Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1, tr. 109)
- ^ Theo 'Lịch sử Việt Nam (Tập 1), tr. 343.
- ^ Ngoài ra sử xưa Trung Quốc còn cho rằng, khi quân Ngô lõa thân ra đánh, Bà Triệu sợ chạy lên núi tự tận. Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10, quyển 1 tập 1) phê: Phong kiến Trung Quốc tìm mọi cách bôi nhọ bà, hòng xóa nhòa ý nghĩa lớn lao của cuộc khởi nghĩa (tr. 109).
Sách tham khảo
- Khuyết danh, Đại Việt sử lược (Nguyễn Gia Tường dịch. Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính). Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1993.
- Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 1). Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1983.
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
- Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 1). Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, lần tái bản năm 1968.
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử VN (tập I). Nhà xuất bản Đại học & THCN, 1983.
- Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Đoàn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I). Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
- Nhiều người soạn, Lịch sử Việt Nam (trước thế kỷ 10), quyển 1 tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 1977.
- Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1992.
- Văn Lang-Quỳnh Cư-Nguyễn Anh, Danh nhân đất Việt (Tập 1). Nhà xuất bản Thanh niên, 1995.
- Hồng Nam-Hồng Lĩnh, Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1984.
- Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi, Giai thoại về phụ nữ Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1987.
- ĐỗThị Hảo- Mai Thị Ngọc Chúc, Các nữ thần Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1984.
- Đặng Duy Phúc, Việt Nam anh kiệt. Nhà xuất bản Hà Nội, 2004.
- Nhiều người soạn, Hỏi đáp lịch sử (Quyển 1). Nhà xuất bản Trẻ, 2006.
Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống ách đô hộ nhà Hán, hơn hai trăm năm sau, vào thế kỷ thứ II, có một người phụ nữ không chịu cam tâm cúi đầu làm nô lệ phương Bắc mà chỉ huy nghĩa quân đánh đuổi giặc Ngô. Người phụ nữ anh hùng đó là Triệu Thị Trinh.
Nữ tướng yêu kiều như nhuỵ hoa
Triệu Thị Trinh (còn có những tên gọi khác như Triệu Trinh Nương, Nàng Trinh hoặc là Bà Triệu) sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại vùng núi Nưa thuộc đất Trung Sơn, quận Cửu Chân (nay thuộc huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa), trong một gia đình hào trưởng.
Quê hương của Bà Triệu cũng chính là quê hương của hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục, những người đã có công khai mạch đại khoa nho học cho Thanh Hoá nói riêng và cả nước nói chung (Họ đã dốc chí học tập rồi thi đỗ tiến sĩ dưới thời Đường Đức Tông (779-805). Bà Triệu mất năm 248, lúc mới 22 tuổi.
Đến nay chuyện Bà Triệu từ thế kỷ thứ II vẫn còn hằn đậm trong tâm thức mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Bà được bao phong là Bột Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu nhân qua nhiều thời đại. Đền thờ Bà hiện nằm trên đỉnh núi Tùng thuộc thôn Phú Điền, nay là xã Triệu Lộc huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa, là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia như một bằng chứng về niềm tự hào và tôn vinh người phụ nữ liệt oanh của dân tộc Việt Nam.
Bấy giờ nước ta nội thuộc nhà Ngô. Khi Bà Triệu bước vào tuổi thanh xuân thì cuộc hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy) cũng đang hồi quyết liệt nhất. Lúc ấy nhà Ngô đang tìm mọi cách vơ vét sức người và sức của, khiến mâu thuẫn xã hội càng trở nên gay gắt, lòng dân càng thêm căm phẫn, trung tâm phong trào đấu tranh chống nhà Hán cũng chuyển dịch dần ra Cửu Chân.
Từ đất quê hương của mình, năm 248, Triệu Quốc Đạt – anh trai Triệu Thị Trinh – đã đứng lên tập hợp lực lượng khởi nghĩa. Triệu quốc Đạt không muốn em gái mới 19 tuổi của mình tham gia, bèn khuyên em ở nhà lấy chồng. Bà Triệu cứng cỏi đáp: “Em muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người”. Câu trả lời ấy đã thể hiện một khí phách anh hùng, một nhân cách ngạo nghễ hiếm có ở một người con gái.
Triệu Thị Trinh đã cùng anh tập hợp nghĩa quân trên núi Nưa rồi kéo quân đánh hãm thành ấp khiến châu quận rối động. Quan quân đô hộ nhiều lần tìm cách đánh dẹp nhưng không dẹp nổi. Đúng lúc nghĩa quân đang hừng hực khí thế thì Triệu Quốc Đạt bất ngờ qua đời.
Không để quân sĩ mất tinh thần, Triệu Thị Trinh thay anh tiếp tục ngồi trên đầu voi chỉ huy nghĩa quân. Từ đó Bà được quân sĩ tôn gọi là Vua Bà. Hình ảnh Vua Bà – Bà Triệu là Nhuỵ Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều như nhuỵ hoa), mặc áo ngắn giáp vàng, chít khǎn vàng, đi giày mũi cong, dũng mãnh cưỡi voi một ngà phất cờ vàng chỉ huy quân sĩ chiến đấu đã trở thành nỗi kinh hoàng của giặc.
Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Vương đánh giặc. Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo quyệt phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), song Bà không một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu, giặc bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ hào.
Sau hơn nửa năm trời trực tiếp đối địch và cũng là hơn nửa năm trời liên tiếp chịu nhiều thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng đến bạt vía kinh hồn. Bởi vậy, đương thời mới có thơ rằng:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan.
Nghĩa là:
Vung gươm đánh cọp xem còn dễ,
Đối mặt Bà Vương mới khó sao.
Sống làm tướng, chết làm Thần
Vùng huyện Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hoá) lưu lại truyền thuyết dân gian về núi đá biết nói khá độc đáo. Theo đó thì vào một đêm thanh vắng nọ, trên triền đá của núi Tùng ở Phú Điền bỗng có tiếng dõng dạc cất lên rằng:
Có Bà Triệu tướng,
Vâng mệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Người người nghe lời ấy, ai cũng tin chắc rằng đá trên núi Tùng biết nói. Lời của đá núi được coi là lời sấm ngôn, lời thiêng liêng chuyển tải mệnh trời rằng: Bà Triệu là Thiên tướng giáng trần, là người sẽ ra tay chỉ huy trăm họ vùng dậy cứu nước cứu dân. Bởi niềm tin sâu sắc ấy, nhân dân khắp nơi đã nườm nượp kéo nhau theo về với Bà Triệu.
Lực lượng nghĩa quân của Bà Triệu vì thế mà phát triển rất nhanh chóng, núi Tùng từ đó trở thành nơi tụ nghĩa. Mãi đến sau này thiên hạ mới vỡ lẽ ra rằng, trước khi chính thức phát động khởi nghĩa, Bà Triệu đã bí mật sai người thân tín leo lên núi Tùng, khoét đá thành hang rồi nhân đêm tối, nấp kín trong hang đá mà đọc thật to mấy câu sấm ngôn nói trên.
Tất nhiên, cơ mưu tạo ra các sự kiện đầy vẻ huyền bí, dù hoàn hảo và đầy sức thuyết phục đến đâu cũng không thể thay thế cho quá trình xây dựng uy tín tự thân và hoàn toàn có thật của Bà Triệu. Nhân dân khắp cõi đương thời đến với Bà Triệu trước hết và chủ yếu cũng bởi uy tín tự thân và hoàn toàn có thật này của Bà. Ca dao Thanh Hoá có câu rằng:
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
Tương truyền, trước khi qua đời, Bà từng quỳ xuống vái trời đất rằng: “Sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết làm Thần). (Đại Nam nhất thống chí, Thanh Hoá tỉnh, tập hạ). Sau khi bà mất, dân vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe trên không trung tiếng cồng thúc quân, voi gầm, ngựa hí. Bà còn phù hộ cho nhiều thủ lĩnh sau này đánh tan quân xâm lược đất nước. Có người sau này lên làm ngôi vua, như Lý Bôn, đã xây đền, lǎng mộ để ghi nhớ công ơn của Bà.
Huyền thoại về tuổi trẻ của Triệu nữ vương có ba điểm nổi bật:
1. Về dung nhan của bà:
Trong nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc (và sau đó đã được một vài thư tịch cổ của ta sao chép lại), thì Bà Triệu có một chân dung rất khác thường: “Tiếng nói nghe như tiếng chuông lớn, thân cao 9 thước, vú dài 3 thước, lưng rộng 10 ôm, mỗi ngày đi nhanh có thể được 500 dặm” (Đại Nam nhất thống chí, Thanh Hoá tỉnh, tập hạ). Huyền thoại ly kỳ về Bà Triệu có lẽ cũng nằm trong xu hướng phản ánh tận cùng căn nguyên chứng tỏ sự bất lực hoàn toàn của chính quyền phương Bắc trước sức mạnh phản kháng quyết liệt của những người phụ nữ cầm đầu.
Trái với ghi chép của thư tịch cổ, chân dung Bà Triệu trong tình cảm nồng hậu của các thế hệ nhân dân ta thể hiện qua truyền thuyết dân gian. Theo đó, Bà có một vẻ đẹp rất thánh thiện mà cũng thật đoan trang, rất thuỳ mị với mọi người nhưng cũng rất dũng mãnh với kẻ thù. Hình ảnh đó thật xứng đáng với vinh hiệu Nhụy Kiều Tướng quân do quân Ngô phong.
Ở thế kỷ XIV, sách Việt điện u linh chép về Bà với nhiều chi tiết linh dị của một nữ thần. Sách Thiên Nam minh giám, một bộ sử bằng văn vần ở thế kỷ XVII cũng kể về Bà với hình ảnh lẫm liệt: “Đầu voi phất ngọn cờ vàng / Giang sơn mấy cõi chiến trường xông pha”.
Thậm chí sử sách văn thơ Trung Quốc cũng ghi lại câu chuyện và hình ảnh ngồi trên đầu voi rất đẹp của người con gái đất Việt. Sách Giao Chỉ chí chép: “Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng đánh chiếm các quận huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm Thần”. Thơ Đường có câu: “Tượng đầu Man nữ mấn triền thân” (Cô gái Man ngồi trên đầu voi váy quấn quanh thân). (Đại Việt sử ký toàn thư. Việt Điện u linh. A.1919. Các nữ thần VNNxb Phụ Nữ).
2. Nổi tiếng can đảm và mưu trí hơn người:
Truyền thuyết dân gian kể rằng, vùng Cẩm Trướng hồi đó có con voi trắng một ngà rất hung dữ, thỉnh thoảng lại về phá hoại mùa màng, ai ai cũng phải sợ. Để trừ mối hại cho dân, Bà Triệu đã rủ chúng bạn đi vây bắt con voi trắng một ngà ấy. Bà lùa voi xuống vùng đầm lầy rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi, sau đó kiên nhẫn tìm cách khuất phục. Con voi trắng một ngà khét tiếng hung dữ rốt cuộc cũng đã phải ngoan ngoãn vâng lời, về sau đã trở thành người bạn chiến đấu rất thân cận và trung thành của Bà.
3. Nổi tiếng thẳng thắn và không bao giờ dung tha kẻ xấu:
Truyền thuyết dân gian về Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá kể rằng, chị dâu của Bà Triệu (vợ Triệu Quốc Đạt) là một người phụ nữ rất lăng loàn. (Cũng có truyền thuyết nói rằng, chính chị dâu của Bà Triệu là kẻ phản bội đầu tiên đã mật báo cho quân Ngô biết kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa của hai anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh. Triệu Quốc Đạt bị giết, còn Triệu Thị Trinh thì thoát được.
Trước khi đến Phú Điền, Triệu Thị Trinh đã giết chết chị dâu để cảnh cáo tất cả những kẻ nào nuôi lòng phản trắc rồi ra ở riêng tại rừng Bồ Điền, khu rừng này về sau đổi là rừng Phú Điền nay thuộc làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá). Bởi lẽ này, nhiều người lầm tưởng đây là sinh quán của Bà Triệu.
Đó là chưa nói rằng, ở huyện Ninh Hoá (tức Yên Hoá) nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình do có đền thờ Bà Triệu nên thư tịch cổ cũng có lúc nhầm tưởng đây là quê hương của Bà. Đây cũng chính là nơi Bà Triệu đã tụ họp nghĩa quân và phát động cuộc chiến đấu một mất một còn với chính quyền đô hộ nhà Ngô.
Tên tuổi và sự nghiệp của Bà Triệu đã trở nên bất diệt với “vạn cổ thử giang sơn” (muôn đời sông núi này) (Chữ của Trần Quang Khải trong bài cảm khái ông viết sau trận đại thắng quân Mông Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (1285) và mãi mãi toả sáng trong sử sách cũng như trong ký ức của các thế hệ nhân dân yêu nước:
Tùng sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Ngọc Yến